Lưu trữ cho từ khóa: yếu tố di truyền

3 yếu tố phát triển chiều cao

Nhiều người lầm tưởng cha mẹ cao lớn, ắt con sinh ra cũng có dáng vóc to cao. Tuy nhiên, yếu tố di truyền chỉ đóng góp một phần, còn lại là do những yếu tố khác như: Dinh dưỡng, môi trường và luyện tập…

Dinh dưỡng đóng vai trò quan trọng đối với phát triển chiều cao của trẻ.

1.Yếu tố về dinh dưỡng

Vai trò của Protein (chất đạm): Chất đạm đóng vai trò thiết yếu trong cấu trúc cơ thể, đặc biệt là các chất đạm từ động vật với đầy đủ các axit amin cần thiết.

Vai trò của Canxi: Canxi là chất dinh dưỡng chính tham gia vào cấu trúc hệ xương, thiếu canxi sẽ ảnh hưởng đến sức lớn và sự vững chắc của xương. Vai trò của Lipid (chất béo): Chất béo rất quan trọng trong sự phát triển các xương dài của trẻ khi còn nhỏ. Đồng thời, chất béo còn giúp tăng cường hấp thu tốt các vitamin tan trong dầu như vitamin A, D... giúp hệ xương phát triển tốt.

Vai trò của vi chất dinh dưỡng: Các nghiên cứu tiến hành gần đây cho thấy ảnh hưởng thiếu vi chất dinh dưỡng đến suy dinh dưỡng thể thấp còi, đặc biệt đáng chú ý là ảnh hưởng do thiếu kẽm, sắt, vitamin A và thiếu i-ốt.


2. Yếu tố về môi trường - xã hội

Yếu tố môi trường và xã hội có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển thể lực trẻ em, đặc biệt là phát triển chiều cao. Trẻ dễ bị suy dinh dưỡng thấp còi khi sống trong điều kiện kinh tế - xã hội kém phát triển, môi trường thiếu vệ sinh, không đủ nước sạch, thực phẩm không đảm bảo an toàn vệ sinh và chất lượng chăm sóc kém.

3. Luyện tập thể dục thể thao

Thường xuyên luyện tập thể dục thể thao có tác dụng rất tốt tới sự phát triển thể lực và tăng cường các phản xạ nhanh nhẹn, bền bỉ, dẻo dai. Nhiều môn thể thao hỗ trợ tốt cho phát triển chiều cao như: Bơi, nhảy cao, chạy...

Như vậy, mọi can thiệp nhằm cải thiện chiều cao của con người cần phải thực hiện sớm, càng sớm càng tốt ngay từ những tuần đầu tiên của thai nhi. Quá trình chăm sóc dinh dưỡng và sức khỏe cần được tiếp tục thực hiện đồng bộ trong suốt quá trình tiếp theo, từ khi trẻ ra đời, thời kỳ bú mẹ, tuổi nhà trẻ mẫu giáo, tuổi học sinh, tuổi vị thành niên.

Gần đây người ta đã thừa nhận cách tiếp cận mới là cần thực hiện chăm sóc dinh dưỡng sớm cho các bé gái từ học sinh, từ tuổi vị thành niên cho đến trước khi có thai. Đồng thời trong quá trình chăm sóc nuôi dưỡng trẻ cần đặc biệt quan tâm đến những giai đoạn trọng điểm của phát triển chiều cao, đó là thời kỳ bào thai, năm đầu tiên của cuộc đời và thời kỳ tiền dậy thì. Trong những giai đoạn này, tác động của yếu tố dinh dưỡng có ảnh hưởng tích cực tới sự phát triển chiều cao.

Trẻ lớn nhanh lúc tiền dậy thì

Sau khi ra đời, trong năm đầu tiên chiều cao trẻ phát triển nhanh, khi trẻ 1 tuổi, trẻ sẽ có chiều cao gấp rưỡi lúc mới đẻ. Từ 1 tuổi đến 10 tuổi trẻ ở giai đoạn lớn đều mỗi năm tăng trung bình khoảng 5cm. Khi đến thời kỳ tiền dậy thì trẻ lớn rất nhanh. Hiện tuổi tiền dậy thì của trẻ em Việt Nam là 9 - 11 tuổi đối với nữ và 12 - 14 tuổi đối với nam. Lứa tuổi này, chiều cao của trẻ nữ tăng mỗi năm khoảng 6cm và trẻ nam là 7cm. Khi đến tuổi dậy thì, sức lớn chậm lại, mỗi năm tăng khoảng 2cm. Giai đoạn tiếp theo cho đến 25 tuổi thì sức lớn rất chậm, chỉ tăng 1-2cm hoặc hầu như không tăng. Cơ thể con người hết tuổi lớn với nữ là khoảng 23 tuổi và nam là 25 tuổi.

PGS.TS Đỗ Thị Kim Liên
Viện Dinh dưỡng Quốc gia

Meo.vn (Theo Giadinh)

Hàm răng người co dần theo thời gian

Một nghiên cứu kéo dài hơn 40 năm cho thấy kích thước hàm răng của người giảm dần theo tuổi tác.

Ảnh minh họa: whitenyourteethfast.com

Lars Bondemark, giáo sư khoa chỉnh hình răng hàm mặt Đại học Malmo tại Thụy Điển, cùng các đồng nghiệp quan sát các khuôn quai hàm làm bằng thạch cao của các sinh viên nha khoa năm 1949 khi họ ở độ tuổi đôi mươi. Sau đó nhóm nghiên cứu so sánh các khuôn ấy với các mẫu khuôn quai hàm của chính những sinh viên nha khoa đó vào năm 1959 và 1989, Healthday đưa tin.

"Chúng tôi nhận thấy sau hơn 40 năm, hàm răng của con người ngày càng nhỏ ”. Bondemark phát biểu trong một cuộc họp báo.

Trên thực tế, tuổi con người càng tăng thì chiều dài và chiều rộng hàm răng - chủ yếu là hàm dưới - càng giảm. Tình trạng ấy khiến khoảng cách giữa các răng trước ngày càng giảm.

Mức độ teo hàm của mỗi người là không giống nhau do tác động của yếu tố di truyền và kết cấu. Trong một vài trường hợp, những thay đổi này lớn đến nỗi chúng ta có thể nhận ra sự bất thường khi nhai, cắn.

"Trong trường hợp đó, chúng ta không nên lo lắng quá mức bởi đó là hiện tượng bình thường. Tuy nhiên, các nha sĩ cũng nên xem xét tình trạng teo hàm liên tục của bệnh nhân khi tìm hiểu khả năng nhai, cắn của họ”, giáo sư Bondemark nói

Vị giáo sư nhận định rằng chúng ta có thể loại bỏ khả năng răng khôn là nguyên nhân làm cho các răng trước bị dồn, bởi ngay cả những người chẳng có chiếc răng khôn nào vẫn có nguy cơ sở hữu hàng răng trước dày sít.

Meo.vn (Theo VnExpress)

Mẹo tránh quầng thâm và bọng mắt

Quầng thâm vùng mắt xuất hiện khi có sự rò rỉ mao mạch ở vùng mí mắt vì rất nhiều lý do khác nhau.

Đặc biệt, khi hiện tượng rò rỉ mạch xảy ra ở vùng mắt sẽ dẫn đến việc xuất hiện quầng thâm sớm do vùng da mí mắt là lớp da mỏng nhất trên cơ thể. Mỏng hơn 4 lần so với vùng da khác và là nơi tập trung nhiều mạch máu, dây thần kinh nên rất nhạy cảm.
Đặc biệt, những thói quen hằng ngày cũng góp phần làm gia tăng quầng thâm như: dị ứng, mệt mỏi, thiếu ngủ, làm việc quá lâu trước máy tính, chế độ ăn uống chưa hợp lý...

Ngoài ra, yếu tố di truyền cũng đóng vai trò tích cực hình thành quầng thâm mắt.

Bọng mắt là do tụ mỡ dưới vùng mắt. Nguyên nhân do vách ngăn bị yếu đi bởi tuổi tác, làm mỡ hốc mắt sa ra phía trước gây ra bọng mỡ dưới mắt. Bọng mắt cũng thường do yếu tố di truyền thuộc nhóm gia đình có cấu trúc vách ngăn không vững chắc nên thoái hoá sớm xuất hiện bọng mỡ dưới mí mắt. Ngoài ra những nguyên nhân khác liên quan đến bệnh thân, thiểu năng giáp, chế độ ăn uống chưa hợp lý như ăn quá nhiều muối... cũng có thể gây bọng mỡ mắt.

Thành phần thiên nhiên làm mờ quầng thầm và bọng mắt

Trong thiên nhiên có rất nhiều thành phần tự nhiên có tác dụng trị quầng thâm và bọng mắt như: lô hội, dưa leo. Ngoài hiệu quả làm mát da, những chiết xuất thiên nhiên này còn giúp làm giảm và thu gọn túi mỡ dưới mắt.

Gần đây, những nghiên cứu khoa học hiện đại đã phát hiện Caffeine là một thành phần tự nhiên cho hiệu quả chống quầng thâm và bọng mỡ cao. Caffeine là tinh chất chiết xuất trà, cà phê, hạt cô la, hoặc từ cây mate ở vùng Nam Mỹ. Nhờ tính dược lý của nó mà caffeine thường được dùng như chất kích thích có tác dụng thúc đẩy quá trình tuần hoàn và hút nước.

Những đặc tính khác của Caffeine đã được khoa học chứng minh:

Nhờ đặc tính chống oxy hoá (caffeine và trà xanh), đồng vận tăng tác dụng chống oxy hoá của các chất chống oxy hoá khác.

Loại bỏ tế bào bị tổn thương trước khi chúng phát triển thành ung thư.

Đặc tính hút nước của tế bào da làm da nhẵn hơn mịn hơn.

Caffeine là chất chống viêm khi bôi lên da và có tác dụng làm giảm bọng mắt, quầng thâm mắt rất hiệu quả.

Theo kinh nghiệm dân gian, nhiều người thường đắp túi trà lạnh để chữa quầng thâm và bọng mắt. Đó là nhờ tác động của tinh chất caffeine có trong trà. Ngày nay, các nhà nghiên cứu và chuyên gia da liễu cho biết việc kết hợp tinh chất caffeine cùng với những động tác massage đơn giản giúp tăng hiệu quả chăm sóc mắt, đặc trị quầng thâm và bọng mắt hơn rất nhiều. Biện pháp này đặc biệt phù hợp cho đối tượng nhân viên văn phòng, thường xuyên làm việc trước máy tính trong thời gian dài, hay phải chịu đựng áp lực của stress lâu dài khiến mắt mệt mỏi.

Meo.vn (Theo alobacsi)

Những ‘đồn thổi’ về bú mẹ

Dưới đây là một số quan niệm chưa có cơ sở khoa học nhưng luôn gây lo lắng cho người mẹ, nhất là những người làm mẹ lần đầu.

‘Mẹ có nhiều sữa vào buổi sáng hơn buổi chiều’

Nhìn chung, các bé mới sinh có nhu cầu sữa mẹ vào buổi chiều (tối) hơn là buổi sáng. Điều này có nghĩa là bạn tạm thời thấy ngực căng hơn vào buổi sáng (và lép hơn vào buổi tối). Vì thế, không phải sản xuất sữa mẹ giảm mà vì mức tiêu thụ ở bé tăng. Buổi sáng hay buổi tối, sữa đều sản xuất như nhau; do đó, nên cho bé bú ở bất kỳ thời điểm nào trong ngày.


‘Tôi không muốn cho con bú vì sữa của tôi loãng quá’

Quan niệm “sữa mẹ chất lượng kém” là không tồn tại. Mỗi người mẹ khỏe mạnh hoàn toàn có đủ sữa nuôi con. Khoa học đã chứng minh, ngay cả những người mẹ suy dinh dưỡng cũng sản xuất đủ sữa giàu dinh dưỡng cho con bú. Đó là lý do, bạn không cần phải cho bé ăn thứ gì khác trong 6 tháng đầu đời, ngoài sữa mẹ.

Những giọt sữa đầu tiên dường như lỏng hơn (khiến bạn tin sữa này kém dinh dưỡng) nhưng nếu tiếp tục cho bú, bé sẽ nhận được lớp sữa có dạng kem và đặc hơn. Do đó, nên cho bé bú cạn một bên mới chuyển sang bên vú kia.

‘Dùng rượu xoa núm vú sẽ khiến núm vú không bị thụt’

Điều duy nhất bạn có từ cách này là làm khô da núm vú và khiến núm vú dễ bị tổn thương. Vài gợi ý giúp núm vú không bị thụt và em bé bám ti mẹ tốt:

- Kéo núm vú nhẹ nhàng trước khi cho con bú.

- Massage bầu vú mẹ nhẹ nhàng bằng khăn tắm trong lúc tắm.

- Bạn nên hạn chế mặc áo lót khi ở nhà (hoặc chọn áo lót dành cho phụ nữ cho con bú, với miếng đệm ngực có thể tháo rời) để không làm kích thích núm vú.

Nếu núm vú quá thụt (bé không ti được), bạn nên dùng cách vắt (bằng tay hay bằng máy) sữa mẹ.

‘Không cho con bú thường xuyên, sữa sẽ đi vào trong’

Sữa mẹ không thể tự “đi” ngược vào trong mà không phải vắt. Bạn cũng sẽ thấy lượng sữa mẹ giảm đi nếu không cho con bú hoặc vắt sữa thường xuyên.

‘Cho con bú vài tháng liên tục làm hỏng dáng ngực’

Cho con bú mẹ không làm thay đổi hình dạng vú mẹ. Bạn có thể chăm sóc bộ ngực bằng những bài tập phù hợp, chọn áo ngực vừa vặn có khả năng nâng đỡ.

Điều kiện về làn da, tuổi tác và các yếu tố di truyền mới là những thứ gây bất lợi cho dáng ngực (ngực sệ theo tuổi tác, cho dù bạn có cho con bú hay không).

Meo.vn (Theo Mevabe)

Phát hiện 6 biến thể di truyền gây bệnh tiểu đường type 2

Tạp chí Di truyền tự nhiên của Anh số ra đầu tháng 9/2011 đăng tải nghiên cứu của nhóm chuyên gia quốc tế, phát hiện 6 biến thể di truyền gây bệnh tiểu đường type 2 ở những người dân Nam Á (gồm Ấn Độ, Pakistan, Srilanca, Bangladesh), đây là khu vực có tỷ lệ mắc bệnh tiểu đường type 2 cao gấp 4 lần so với những nơi khác, đặc biệt là châu Âu.

Trong nghiên cứu trên, nhóm đề tài tiến hành kiểm tra DNA của 18.731 người mắc bệnh tiểu đường và 39.856 người khỏe mạnh để đối chứng, đặc biệt là phân tích kỹ hệ gen của nhóm người này, đặc biệt, những người mắc bệnh tiểu đường được phân tích kỹ tại vị trí các biến thể gen để tìm ra thủ phạm.

Kết quả, xác định được 6 vị trí có những chữ cái đơn trong mã gen khác lạ so với những người khỏe mạnh và đây là thủ phạm làm gia tăng bệnh.

Mặc dù đã phát hiện thấy 6 biến thể gen gây bệnh song nhóm đề tài vẫn chưa tìm ra câu trả lời tại sao những người dân vùng Nam Á lại có tỷ lệ mắc bệnh cao như vậy. Qua so sánh ở lối sống, thực đơn vẫn chưa phải là lý do chính và nhờ phát hiện thấy 6 biến thể di truyền, có thể khẳng định yếu tố di truyền có đóng vai trò quan trọng. Hy vọng trong tương lai con người sẽ tìm ra những liệu pháp điều trị mới mang lại hiệu quả cao hơn.

Meo.vn (Theo SK&ĐS)

Răng bị sậm màu và các biện pháp cải thiện màu răng

Màu răng bình thường do yếu tố di truyền quyết định. Răng vĩnh viễn bình thường có màu trắng trong. Màu răng thường không đều ở tất cả các răng, răng nanh thường có màu sậm hơn. Tuy nhiên, về sau, răng chúng ta ngày càng thay đổi, không còn giữ được màu nguyên thủy nữa.

Nguyên nhân gây sậm màu răng

Có 2 nhóm nguyên nhân chính:

1. Răng sậm màu do các vết dính sậm màu bám trên bề mặt răng

Trường hợp này xảy ra khi các răng đã mọc. Các vết dính sậm màu có thể do thức ăn, nước uống, thuốc lá hay các loại thuốc ngậm, thuốc súc miệng gây ra; Ví dụ như trà, cà phê, nước ngọt, cà ri, màu thực phẩm, trầu, thuốc súc miệng chlorhexidine (thường được bác sĩ nha khoa kê toa trong điều trị bệnh nha chu hay hôi miệng). Hút thuốc lá, xì gà, hoặc nhai thuốc lá cũng có thể tạo nên các vết sậm màu trên răng.

Các vết dính này thường bám vào những trũng, rãnh trên bề mặt răng. Cũng có khi chúng bám lên cả bề nhẵn của mặt răng và bao phủ toàn bộ răng.

Những vết dính này có thể có nhiều màu khác nhau như vàng đậm, nâu nhạt đến nâu đậm, hay thậm chí có màu đen.

2. Răng sậm màu do có các chất sậm màu nằm bên trong cấu trúc răng

Các chất sậm màu có thể xâm nhập vào trong cấu trúc răng trước hay sau khi răng mọc.

Trước khi răng mọc

Các răng đầu tiên mọc vào khoảng 6 tháng tuổi. Tuy nhiên, sự hình thành răng đã bắt đầu từ tuần thứ 5 trong bào thai. Kể từ thời gian này cho đến khi răng mọc, có thể có nhiều thay đổi gây nên sự sậm màu răng.

- Răng nhiễm Tetracycline

Tetracycline là một loại kháng sinh. Ngày nay còn có Doxycycline, Minocycline... là các thuốc kháng sinh cùng nhóm với Tetracycline.
Nếu người mẹ uống các thuốc này khi đang mang thai hoặc trẻ uống các thuốc này trước 7-8 tuổi thì có thể làm răng đổi màu. Mức độ sậm màu răng tùy thuộc vào thời điểm, thời gian dùng thuốc, liều lượng và loại thuốc. Màu răng có thể trở nên vàng, nâu hay xám xanh. Sự thay đổi màu này có thể xảy ra trên toàn bộ răng hay chỉ ở một vùng nào đó, làm răng có những dải màu khác nhau. Trong trường hợp nặng, răng còn có thể bị lỗ chỗ, khiếm khuyết, mất đi hình dạng bình thường.

- Răng nhiễm fluo

Fluo là một chất hóa học có thể có trong tự nhiên (ví dụ trong nước giếng), vì có khả năng chống sâu răng nên thường được cho thêm vào nước máy, sữa, kem đánh răng...

Nếu phụ nữ mang thai hay trẻ em nuốt phải fluo quá nhiều từ các nguồn nói trên, răng sẽ có những vết nâu hay trắng đục. Trường hợp nặng có thể gây khiếm khuyết cấu trúc răng.

- Ngoài ra, một số bệnh lý khác của răng hay của máu cũng có thể làm thay đổi màu răng (ví dụ sinh men bất toàn, không phù hợp yếu tố Rhesus giữa mẹ và con...).

Sau khi răng mọc

- Răng chết tủy sau khi điều trị tủy

Răng có thể bị chết tủy do sâu răng, chấn thương hay một số bệnh lý khác. Răng sậm màu do có chảy máu bên trong răng.

- Sự tích tuổi

Càng lớn tuổi, răng càng bị mòn hoặc có nhiều vết nứt nên dễ bị nhiễm màu hơn. Ngoài ra bên trong răng có sự tạo thêm các lớp ngà thứ cấp làm cho răng có màu sậm.

Các điều trị nha khoa

Một số thủ thuật điều trị nha khoa có thể làm thay đổi màu răng, ví dụ trám răng bằng chất trám có màu sậm (như amalgam), điều trị tủy răng.

Các phương pháp cải thiện màu răng

Có nhiều phương pháp cải thiện màu răng, do bệnh nhân hoặc bác sĩ nha khoa thực hiện. Có thể áp dụng các phương pháp này riêng rẻ hay kết hợp với nhau.

1. Làm thay đổi màu răng nhưng không gây ảnh hưởng đến cấu trúc răng

- Lấy đi các vết dính sậm màu trên răng bằng dụng cụ cạo vôi và đánh bóng răng. Việc này phải do bác sĩ nha khoa thực hiện.

- Tẩy trắng răng: sử dụng các thuốc tẩy trắng răng hay kem đánh răng, kẹo cao su có chất tẩy trắng; có thể do bác sĩ nha khoa thực hiện, hoặc bệnh nhân thực hiện dưới sự kiểm soát của bác sĩ.

2. Làm thay đổi màu răng có ảnh hưởng đến cấu trúc răng (mài răng)

Phương pháp này phải do bác sĩ nha khoa thực hiện. Nguyên tắc chung là mài bỏ đi một phần cấu trúc răng và thay vào bằng một chất khác có màu sáng hơn (ví dụ đắp composite lên mặt răng). Phương pháp này thường được chọn lựa khi sậm màu răng có kèm theo khiếm khuyết cấu trúc răng hoặc thay đổi hình dạng răng.

Phương pháp này có ưu điểm là: chọn được màu răng theo ý muốn, giải quyết được tình trạng mô răng bị khiếm khuyết; Nhưng sự phục hồi không bền lâu, có thể gây nhạy cảm trong lúc thực hiện, phải hạn chế dùng các thức ăn dai cứng và nếu đắp composite thì sau vài năm, vật liệu sẽ bị đổi màu.

Lưu ý: Cần hỏi ý kiến của bác sĩ nha khoa trước khi quyết định chọn một phương pháp cải thiện màu răng và ưu tiên sử dụng các phương pháp không mài răng

Meo.vn (Theo Camnangthuoc)

Tử cung nhi hóa có cần điều trị?

Thưa bác sĩ,

Em bị tử cung nhi hóa đã lâu, năm nay em 30 rồi. Năm 18 tuổi em có kinh một lần nhưng rất ít, đi khám bác sĩ nói khi nào lập gia đình đi rồi trị. Nhưng vì mặc cảm ngực kém phát triển nên em vẫn chưa có gia đình. Cho em hỏi như vậy sau này lớn tuổi có sao không? (Dung Dung)

http://www.motgiadinh.com/data/news/fullsize/2009/12/26/648998164_56274957.jpg
Ảnh minh họa

Trả lời:

Chào Dung Dung,

Tử cung nhi hóa hay tử cung vẫn còn nhỏ, trong khi tuổi đã trưởng thành và có khả năng sinh nở nhưng vì tử cung nhi hóa nên không thể mang thai.

Bình thường bé gái bắt đầu dậy thì trong độ tuổi từ 9 - 13, bạn 18 tuổi có kinh một lần là thuộc nhóm dậy thì muộn.

Nguyên nhân khiến trẻ dậy thì muộn có thể do rối loạn nội tiết, tình trạng sức khỏe kém, có bất thường về buồng trứng, chế độ dinh dưỡng chưa hợp lý, có các bệnh mạn tính về máu, ung thư, bệnh bất thường về nhiễm sắc thể, yếu tố di truyền (gia đình bố, mẹ cũng dậy thì muộn)…

Dậy thì muộn sẽ có liên quan đến tử cung không phát triển, kích thước quá nhỏ của “cô bé” - khiếm khuyết ở cơ quan sinh dục như âm đạo hẹp hay quá ngắn, âm vật bé, tử cung nhi hóa và ngực không phát triển…

Trường hợp của bạn cần đến BV sản phụ khoa khám và làm xét nghiệm xem ngoài tử cung nhi hóa và ngực kém phát triển, các cơ quan khác sinh dục khác có gì bất thường như BS đã mô tả ở trên? Đồng thời tìm nguyên nhân xem có phải là do thiếu hụt về nội tiết: do suy buồng trứng sớm do buồng trứng đa nang gây rối loạn nội tiết…?

Bạn nên tự tin đi khám bệnh và không nên mặc cảm vì chuyện đó mà không lập gia đình, BS sản khoa sẽ giúp bạn điều này. Sau khi tìm nguyên nhân, BS sẽ có hướng điều trị thích hợp cho bạn. Thông thường, BS sẽ bổ sung thuốc nội tiết là tử cung có thể lớn bình thường để mang thai.

Chúc bạn vượt qua được trở ngại này để tìm thấy hạnh phúc!

Meo.vn (Theo alobacsi)

Ðái tháo đường trẻ em, những điều nên biết

Đái tháo đường trẻ em (ĐTĐTE) là một bệnh nội tiết không phổ biến như người trưởng thành. Khoảng 90% ĐTĐTE là týp 1, số còn lại là ĐTĐ týp 2, thường gặp ở trẻ bị thừa cân và béo phì hoặc trong hội chứng gây béo khác như HC Prader-Willi, Laurence –Moonbiedl...

Nguyên nhân ĐTĐ ở trẻ em thường do yếu tố di truyền và quá trình viêm tự miễn phá huỷ cấu trúc tế bào bêta tuỵ làm giảm sản xuất insulin, gây tăng đường huyết (ĐH) mạn tính. Vì vậy, liệu pháp điều trị thay thế insulin là bắt buộc và ngay sau khi xác định chẩn đoán ĐTĐ càng sớm càng tốt. ĐTĐTE không được uống các loại thuốc Đông y hoặc các bài thuốc cổ truyền của người lớn, nếu không điều trị bằng insulin, trẻ sẽ bị biến chứng mù loà, suy thận hoặc nhiễm toan ceton dẫn đến tử vong.


Tế bào bêta tuyến tụy tiết ra insulin điều hòa đường huyết.

Làm thế nào để biết trẻ mắc ĐTĐ?

Để khẳng định trẻ có mắc ĐTĐ hay không, cần phải có các xét nghiệm và chẩn đoán chính xác để tránh việc điều trị sai. Việc chẩn đoán gồm 4 giai đoạn:

Giai đoạn sớm chưa có biểu hiện lâm sàng: Chính vì chưa có biểu hiện lâm sàng nên bệnh chỉ được phát hiện khi khám và làm các xét nghiệm để chẩn đoán và dự phòng bệnh trong thời gian tới.

Giai đoạn bị bệnh đái tháo đường: Đây là giai đoạn đã có những triệu chứng với hai đặc điểm lâm sàng là:

Khởi phát đột ngột và cấp tính: đái nhiều, uống nhiều, mất nước, rối loạn nhịp thở Kussmaul, nhiễm toan ceton và hôn mê.

Khởi phát từ từ: đái nhiều, uống nhiều, ăn nhiều và gầy sút cân trong vài tuần hoặc vài tháng. Kèm theo các triệu chứng khác như: đái dầm dai dẳng, đau bụng, nôn, nhiễm trùng sinh dục và da tái diễn, mệt mỏi, giảm tập trung khi học.

Cần đưa trẻ đi làm xét nghiệm glucose máu & niệu để phát hiện bệnh ĐTĐTE khi có đái nhiều, uống nhiều và gầy sút cân.

Giai đoạn thuyên giảm một phần “tuần trăng mật”: Bệnh nhân không cần dùng insulin ngoại sinh vì glucose máu, HbA1C bình thường, nhu cầu insulin thấp < 0.5 u/kg/ngày. Khoảng 30-60% trẻ em có giai đoạn thuyên giảm bệnh sau 1-6 tháng bắt đầu điều trị insulin. Do đó, với bệnh nhân mới chẩn đoán ĐTĐ, phải giám sát chặt chẽ glucose máu trong 6 tháng đầu điều trị insulin.

Giai đoạn ĐTĐ vĩnh viễn, toàn bộ tế bào bêta bị phá huỷ, thiếu insulin toàn bộ: Đái nhiều, uống nhiều, ăn nhiều, giảm cân, mệt mỏi, thị lực giảm, mất nước và có thể đái đường nhiễm toan ceton. Đặc điểm: ít gặp ở trẻ dưới 1 tuổi, tỷ lệ mắc bệnh tăng dần theo tuổi và thường bị ĐTĐ khi dậy thì 10-14 tuổi.

Điều trị như thế nào?

Mục đích cần đạt được khi điều trị insulin ở trẻ em là đảm bảo ĐH ổn định trong giới hạn cho phép từ 4-7 mmol/l vào ban ngày và 4-9 mmol/l vào ban đêm. HbA1C < 7 %; trẻ tăng cân đi học được; phát triển thể lực và sinh dục bình thường; hạn chế những biến chứng xảy ra trong quá trình điều trị. Do đó, cần phải có kế hoạch khám và điều trị rất chặt chẽ cho trẻ.

Chế độ ăn cho trẻ mắc ĐTĐ

Chế độ ăn của trẻ bị ĐTĐ không kiểm soát chặt chẽ như người lớn, vì cơ thể trẻ đang phát triển cần ăn đủ chất, đảm bảo phát triển, tăng trưởng trong giai đoạn dậy thì và vị thành niên, nhưng phải kiểm soát glucose máu ổn định.

Dự án Phòng chống bệnh đái tháo đường

Meo.vn (Theo SKĐS)

Thực hư về hiện tượng đồng tính

Câu chuyện quan hệ và hôn nhân đồng tính cho tới nay vẫn còn gây ra nhiều tranh cãi với phần lớn ý kiến là lên án. Tuy nhiên, các nghiên cứu khoa học cho thấy, có nhiều điều người ta đang hiểu sai về hiện tượng được gọi là “phi chuẩn” này.

Xin giới thiệu đến bạn đọc bài viết được đăng tải trên trang Livescience như một nguồn tư liệu tham khảo giúp chúng ta hiểu rõ hơn về hiện tượng này.

Không có hiện tượng quan hệ đồng giới ở các loài vật khác?

Xưa nay chúng ta vẫn quen mặc định việc ghép đôi đực-cái là quan hệ tự nhiên duy nhất trong thế giới loài vật, tuy nhiên trên thực tế, hiện tượng cặp đôi đồng giới không hiếm trong vương quốc của các loài vật. Các loài như chim cánh cụt, cá heo, bò rừng, thiên nga, hươu cao cổ và tinh tinh là những loài mà thỉnh thoảng vẫn xảy ra hiện tượng quan hệ đồng giới tính.

Các nhà khoa học vẫn đang đau đầu nghiên cứu xem nguyên nhân tiến hóa nào dẫn đến quan hệ đồng giới ở động vật, bởi vì rõ ràng là mối quan hệ này không thể sản sinh thế hệ tiếp theo để duy trì giống. Một số ý kiến cho rằng các loài vật làm vậy là để thắt chặt các mối quan hệ xã hội, hoặc có thể chúng chỉ làm vậy để vui đùa, bởi lẽ “không nhất thiết mọi hành vi tính dục đều nhằm mục đích sinh sản” như lời nhà sinh học Janet Mann thuộc trường Đại học Georgetown.

Quan hệ đồng giới không bền lâu?

Một quan niệm phổ biến khác về quan hệ đồng tính là các mối quan hệ này về bản chất là không có thực và vì vậy không thể kéo dài được lâu so với các mối quan hệ khác giới “truyền thống”.

Tuy nhiên các nhà nghiên cứu đã chứng minh điều này không đúng. Các nghiên cứu lâu dài ở những cặp đôi đồng giới đã cho thấy mối quan hệ của họ cũng lâu bền như những quan hệ khác giới khác.

Theo nhà tâm lý học Anne Peplau (thuộc trường UCLA), “có những bằng chứng đáng tin cậy cho việc những cặp đôi đồng tính ở cả hai giới đều có mong muốn xây dựng một mối quan hệ bền vững và có cam kết lâu dài, và thực tế nhiều cặp đã làm được điều này, cho dù còn vướng phải những khó khăn về định kiến xã hội, các lo ngại phạm phải những điều cấm kỵ trong tôn giáo, hay không được thừa nhận về mặt pháp luật”.

Giáo sư danh dự John Gottman của trường Đại học Washington và các đồng nghiệp đã thu thập tư liệu về các cặp đôi đồng tính trong vòng 12 năm và thấy rằng trong suốt thời gian đó chỉ có 20% trong số này chia tay, và cũng theo thống kê này thì tỉ lệ tan vỡ này thấp hơn một chút so với tỉ lệ tan vỡ ở các cặp đôi khác giới bình thường trong cùng khoảng thời gian nghiên cứu.

Ngoài ra, cũng trong nghiên cứu này, kết quả còn cho thấy những cặp đôi đồng giới có khuynh hướng giải quyết xung đột tốt hơn và khiến nảy sinh những cảm xúc tích cực ở đối phương.

Các cặp đôi đồng giới không thể là những “ông bố”, “bà mẹ” tốt?

Nhiều người cho rằng hôn nhân đồng giới và việc các cặp đồng giới nhận con nuôi là không tốt cho việc nuôi dạy trẻ. Họ cho rằng một đứa trẻ cần cả bố lẫn mẹ, theo đúng nghĩa, trong việc nuôi nấng để có thể phát triển bình thường và khỏe mạnh. Nhưng theo các nhà nghiên cứu, con cái của những cặp “bố mẹ” đồng giới có xu hướng phát triển bình thường.

Chẳng hạn như trong một nghiên cứu mới đây, các nhà khoa học quan sát 90 trẻ vị thành niên, một nửa trong số này sống với những cặp đôi đồng giới nữ còn nửa kia sống với những cặp đôi khác giới bình thường, kết quả cho thấy cả hai nhóm đều sinh hoạt bình thường tại trường học. Những đứa bé trai trong các gia đình đồng giới có điểm trung bình là 2,9 so với điểm của nhóm ở trong các gia đình bình thường là 2,65; điểm số tương ứng của các bé gái ở hai nhóm là 2,8 và 2,9.

Một nghiên cứu khác còn cho biết những đứa trẻ có hai bố hoặc hai mẹ trong gia đình không có khuynh hướng phạm tội hơn những đứa trẻ trong các gia đình bình thường.

Timothy Biblarz, nhà xã hội học thuộc trường Đại học Southern California cho biết: “Các bằng chứng khoa học đã cho thấy trẻ em được nuôi dưỡng bởi các cặp đôi đồng giới nhìn chung vẫn phát triển bình thường như những trẻ có bố mẹ khác giới. Vì vậy quan niệm trước đây cho rằng trẻ cần có cả bố lẫn mẹ mới phát triển bình thường là chưa đúng.”

Quan hệ đồng giới là lựa chọn của cá nhân?

Trong khi nhiều ý kiến cho rằng quan hệ đồng giới chỉ đơn thuần là lựa chọn và sở thích cá nhân, hoặc “bệnh đồng tính” có thể chữa khỏi, đã có hàng loạt các bằng chứng khoa học cho thấy khuynh hướng tình dục này có một phần yếu tố di truyền và phát triển trên một nền tảng sinh học.

Để kiểm chứng xem gen có vai trò như thế nào trong việc lựa chọn bạn tình, các nhà nghiên cứu đã so sánh các cặp song sinh cùng trứng (có bộ gen giống nhau hoàn toàn) với các cặp song sinh khác trứng (bộ gen chỉ giống 50%). Kết quả bước đầu của nghiên cứu này được công bố vào năm 2001 cho thấy gần như tất cả các cặp song sinh cùng trứng đều có khuynh hướng tình dục giống nhau, có nghĩa rằng hoặc là cả hai đều có khuynh hướng tình dục đồng giới, hoặc cả hai đều có khuynh hướng tình dục khác giới. Còn ở những cặp song sinh khác trứng thì khuynh hướng tình dục không liên quan nhiều. Những nghiên cứu như trên đã chứng minh được rằng gen có vai trò trong việc quy định khuynh hướng tình dục.

Còn theo các nghiên cứu khác, những yếu tố sinh học như việc tiếp xúc với các loại hormone khi còn ở trong bào thai cũng có thể góp phần hình thành khuynh hướng tình dục. Ngoài ra, các khác biệt về mặt sinh lý học như sự khác biệt trong cấu tạo tai trong của những người có tình dục đồng giới và khác giới cũng củng cố thêm các kết quả nghiên cứu trên.

Meo.vn (Theo Vietnamnet)

Quẳng gánh lo đi – Vì sao người ta dễ bệnh tâm thần?

Mỗi ngày, khoa khám của bệnh viện Tâm thần TP.HCM tiếp nhận từ 500 đến 600 bệnh nhân. Nếu như trước kia bệnh nhân mắc chứng tâm thần phân liệt là chủ yếu thì hiện căn bệnh này chiếm chưa đến 50%. Trên 50% bệnh nhân còn lại đều do các chứng trầm cảm, rối loạn lo âu, mất ngủ liên quan đến các nguyên nhân tâm lý.

Theo bảng phân loại quốc tế về các rối loạn tâm, bệnh tâm thần hiện chia thành gần ba trăm loại. Ví như tâm thần phân liệt; các rối loạn lo âu; rối loạn thích ứng; rối loạn hành vi; rối loạn giấc ngủ; rối loạn tình dục; rối loạn lưỡng cực; trầm cảm…

Đổ vỡ tình cảm, thất bại kinh doanh…

Với chứng tâm thần phân liệt, rối loạn lưỡng cực, đến nay y học vẫn chưa tìm thấy nguyên nhân. Hiện đây là những bệnh được cho là có nhiều yếu tố gây nên, trong đó có yếu tố di truyền từ thế hệ này sang thế hệ kia. Các nghiên cứu đã tìm thấy ở những cặp sinh đôi cùng trứng có dấu hiệu tâm thần phân liệt hay trong các trường hợp bố mẹ bị bệnh, con cái cũng có nguy cơ mắc bệnh cao hơn quần thể chung. Bên cạnh đó, yếu tố sinh học cũng ảnh hưởng đến các bệnh tâm thần. Các dẫn chất thần kinh như dopamin, serotonine, norepinephrine… trong não bộ tăng lên hay giảm xuống được nhận thấy trong môt số bệnh.

Ngoài những yếu tố trên, môi trường sống cũng là yếu tố tác động rất nhiều đến tinh thần, ví như đổ vỡ tình cảm hay thất bại trong kinh doanh, nghề nghiệp, tình trạng stress kéo dài. Một yếu tố không kém phần quan trọng nữa là bản lĩnh của mỗi người, người mạnh mẽ thì dễ vượt qua các khó khăn trong cuộc sống, người yếu đuối, phụ thuộc, thì ngược lại và họ dễ mắc các rối loạn tâm thần hơn.

Áp lực công việc, học đường, thất thường sinh hoạt…

Nhịp sống hiện đại luôn đòi hỏi con người phải có sự phấn đấu hết mức có thể. Ngoài công việc, họ cần liên tục trau dồi ngoại ngữ, công nghệ thông tin để nhanh chóng cập nhật những tri thức, kỹ năng mới. Giờ làm việc không còn dừng lại ở tám tiếng, không phải làm đến hết giờ mà đến khi nào hết việc mới ngưng. Sự thất thường trong chế độ sinh hoạt, cộng với những áp lực lo toan sẽ bị sa thải, bị phá sản là con đường rất ngắn dẫn đến stress, tâm thần.

Nói với người bận rộn

Sau khi tan sở, trở lại với đời thường, nên để lại công việc ở cơ quan. Gặp gỡ bạn bè, chơi thể thao, nghe nhạc. Cuối tuần, cùng vợ (chồng) con đi mua sắm, hoặc đi dã ngoại với cả gia đình. Có điều kiện thì tổ chức du lịch, về quê thăm họ hàng, người thân. Mỗi người cần có một đam mê, một thú vui nào đó để giảm căng thẳng từ công việc, ví như nghe nhạc, chơi một nhạc cụ, thành thạo một môn thể thao, hoặc học khiêu vũ… Nói cho cùng, chúng ta nên thiết lập một lối sống lành mạnh, biết chia sẻ và quân bình giữa tinh thần và thể chất. Một cơ thể cường tráng thì tinh thần cũng luôn sảng khoái.

Những áp lực từ học đường cũng có thể khiến trẻ nhanh chóng rơi vào các rối loạn như lo âu, trầm cảm, rối loạn hành vi. Thời khoá biểu học dày đặc từ sáng đến tối. Thời gian nghỉ ngơi bị thu hẹp. Không được chơi, ít được tìm tòi, khám phá thế giới xung quanh, cuộc sống của trẻ bó hẹp, không còn thời gian tiếp xúc với thiên nhiên, giao tiếp với bên ngoài xã hội. Sự học từ lúc nào trở thành nỗi ám ảnh trong đầu trẻ. Chúng sợ đến trường và dễ xuất hiện các rối loạn như nôn ói, khó thở, đau bụng mỗi khi cha mẹ kêu đi học.

Cấu trúc gia đình bị phá vỡ

Có thể nói cấu trúc gia đình thời hiện đại đã ít nhiều bị phá vỡ. Con cái trưởng thành không nhất thiết phải chung sống với bố mẹ. Có nhiều gia đình chỉ có hai ông bà già sống với nhau. Và chuyện sống chung hai, ba thế hệ dưới một mái nhà cũng tiềm ẩn nhiều khác biệt về cách nghĩ, cách sống. Người già thích nghe cải lương, ăn đồ nấu tại nhà, mặc quần áo kín đáo. Họ hay có thói quen áp đặt cách nghĩ, cái nhìn của mình lên con trẻ. Trong khi đó, giới trẻ lại thích hip hop, ăn fastfood, xài đồ thời trang… Một khi không cân bằng được cách sống giữa các thế hệ, mâu thuẫn sẽ diễn ra, nếu không được giải quyết, sự giằng xé giữa quá khứ và thực tại có thể dẫn đến tình trạng stress kéo dài, lúc đó trầm cảm có thể xuất hiện.

Tỷ lệ trầm cảm ở phụ nữ hiện đã tăng gấp đôi so với nam giới. Người ta cho rằng, có một số giai đoạn đặc biệt như thai nghén, sinh nở, nuôi con, trách nhiệm với gia đình, giai đoạn tiền mãn kinh… có thể giải thích cho hiện tượng này. Ngoài thiên chức làm mẹ, làm vợ, người phụ nữ hiện cũng phải gánh vác công việc xã hội như nam giới. Điều này chắc chắn làm tăng nguy cơ mắc bệnh trầm cảm cho họ.

SGTT