Lưu trữ cho từ khóa: viêm khớp cấp

Viêm họng gây thấp khớp cấp ở trẻ em

Đây còn được gọi là bệnh thấp tim, hay gặp ở lứa tuổi học đường, xuất hiện sau nhiễm khuẩn đường hô hấp trên, đặc biệt là viêm họng do nhiễm liên cầu khuẩn bêta nhóm A.

Sau vài tuần kể từ khi bị viêm họng, trẻ có thể xuất hiện các viêm khớp cấp do thấp.

Trẻ có biểu hiện ban đầu như viêm họng, sốt cao. Sau vài tuần kể từ khi bị viêm họng, trẻ có thể xuất hiện các viêm khớp cấp do thấp. Viêm khớp có tính chất xảy ra đột ngột, hay gặp ở các khớp to vừa như khớp gối, cổ chân, khuỷu tay, cổ tay, ít gặp viêm các khớp nhỏ ở bàn tay, bàn chân, hoặc viêm một khớp đơn độc. Các khớp bị viêm sưng to, nóng, đỏ, đau, có thể có dịch nhưng không bao giờ bị hóa mủ.

Khớp viêm thường không đối xứng, hay di chuyển từ khớp này sang khớp khác. Viêm khớp có thể tự khỏi nhưng thường khỏi nhanh hơn khi dùng thuốc chống viêm. Trong khi biểu hiện ở khớp thường khỏi nhanh, khỏi hoàn toàn không để lại di chứng thì biểu hiện ở tim thường nặng nề và là biểu hiện nguy hiểm nhất của bệnh. Ngoài các triệu chứng ở khớp, ở tim... trẻ còn có thể có các triệu chứng thần kinh như giật, liệt, hôn mê, đau bụng, tiểu ra máu...

ThS Trần Trung Dũng
(Khoa Cơ xương khớp, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội)

Meo.vn (Theo Bee)

3 bệnh khớp hay gặp trong mùa đông

Mùa đông, thời tiết lạnh, ẩm khiến tình trạng bệnh của những người bị khớp trở nên nặng hơn. Viêm khớp dạng thấp, thấp tim và gút là 3 bệnh dễ lên những đợt cấp tính nhất trong mùa đông.

Thời tiết lạnh và ẩm khiến bệnh viêm khớp dạng thấp, thấp tim và gút tiến triển nhanh hơn. Bệnh nhân gút thường bị những đợt cấp tính vào mùa lạnh, mặc dù thời tiết lạnh và ẩm không phải là nguyên nhân chính gây nên những đợt viêm cấp này mà chủ yếu do tình trạng ăn nhậu thường xuyên của người bệnh. “Trời lạnh là yếu tố kích thích mọi người ăn nhậu, vì thế mà bệnh gút trở nên nặng hơn” – GS.TS Trần Ngọc Ân, Chủ tịch Hội thấp khớp học Việt Nam cho biết.

Thấp tim (thấp khớp cấp biến chứng vào tim): Là bệnh hay gặp ở trẻ em trên 5 tuổi và người trẻ tuổi. Thời tiết lạnh, ẩm là nguyên nhân khiến liên cầu khuẩn phát triển, gây nên viêm họng, sau đó tiến triển thành viêm đường hô hấp trên. Loại liên cầu khuẩn này kích thích cơ thể sản xuất ra các kháng thể gây ảnh hưởng đến tim, khớp, thần kinh và gây nên bệnh thấp tim. Biểu hiện của bệnh: trẻ bị sốt, đau họng, ho, tiếp đến là sưng, nóng các khớp, đặc biệt là sưng khớp gối, khớp khuỷu và chạy từ khớp này sang khớp khác. Sưng khớp và khớp di chuyển từ khớp này sang khớp khác là một yếu tố quan trọng để nhận biết nguy cơ bị thấp tim ở bệnh nhân. Khi trẻ có những dấu hiệu trên, phải đưa trẻ đến viện ngay để được chẩn đoán, điều trị kịp thời. Bệnh thấp tim có thể phòng được bằng phương pháp tiêm chậm peniciline. Phương pháp này có tác dụng làm cho bệnh không tái phát được và không biến chứng vào tim. Tuy nhiên, trước khi tiêm phòng, cần có sự thăm khám của bác sĩ để xác định nhiều yếu tố liên quan. Tất cả những trẻ dù chỉ bị thấp khớp cấp một lần cũng phải tiêm phòng chậm peniciline đến năm 21 hoặc 25 tuổi.

Viêm khớp dạng thấp: Là bệnh khớp mãn tính kéo dài trong nhiều năm và có thể gây những di chứng nặng nề như: dính, biến dạng khớp. Ở Việt Nam, tỷ lệ mắc bệnh này chiếm 0,3% – 0,5% dân số, trong đó 80% là nữ giới ở độ tuổi từ 30 trở lên. Triệu chứng của bệnh là viêm nhiều khớp (khớp cổ tay, bàn tay, đốt tay, khớp chân…) và diễn biến kéo dài. Người bệnh cũng có thể bị cứng khớp vào buổi sáng, gây khó cử động các khớp và kéo dài hằng giờ. Viêm khớp dạng thấp diễn biến từng đợt, ở giai đoạn đầu, nếu được phát hiện sớm và chữa trị tích cực, đúng cách, bệnh có thể diễn biến tốt. Nếu bệnh đã chuyển sang giai đoạn hai, xuất hiện tổn thương ở sụn khớp và đầu xương, người bệnh có nguy cơ bị biến dạng khớp, dính khớp, cứng khớp và mất khả năng vận động của khớp.

Bệnh gút: Gút là bệnh chủ yếu ở nam giới trên 30 tuổi, sống tại thành thị. Biểu hiện: Khớp bị sưng, đặc biệt là sưng đau ngón chân cái. Giai đoạn đầu thường bị viêm một cách đột ngột, khớp bị sưng vù, nóng đỏ, bị đau dữ dội, đến mức không đi lại được. Có thể chỉ sau 1 đêm, các khớp từ bình thường đã bị sưng tấy, nóng đỏ. Những cơn gút đầu tiên có thể tự hết, sau đó 1 năm có thể  tái phát một, hai lần. Bệnh càng biểu hiện nặng hơn khi uống rượu nhiều và ăn quá nhiều chất béo… Khi trời lạnh, kèm theo mưa phùn thì người bị thấp tim, viêm khớp dạng thấp không nên ra ngoài, phải giữ ấm cơ thể, đặc biệt là chân tay. Người bị gút hãy tránh xa rượu và các đồ nhắm giàu chất béo nếu không muốn bị lên những đợt viêm khớp cấp tính.

Theo DT

Thực phẩm cho người bị bệnh gut

Một đặc trưng của bệnh gut là việc xuất hiện các cơn viêm khớp cấp tính do gut. Cơn xuất hiện tự phát hoặc sau một bữa ăn hoặc uống rượu quá mức. Bạn có thể làm giảm bớt và ngăn chặn những cơn đau đớn bằng chính chế độ ăn uống khoa học, hợp lý của mình.Những ai thường mắc bệnh gut?

Gut là một bệnh khớp do rối loạn chuyển hóa nhân purin của tế bào, có thể nói nôm na là rối loạn chuyển hóa đạm, được đặc trưng bởi sự tăng cao quá mức axit uric trong máu và mô. Các tinh thể urat lắng đọng vào màng hoạt dịch của khớp gây nên viêm khớp vi tinh thể với những triệu chứng rất đặc trưng.

Bệnh thường xảy ra ở những người có địa vị cao trong xã hội hay người có kinh tế khá giả. Tuy nhiên, những năm gần đây, xã hội phát triển, đời sống dần được nâng cao, khoảng cách giữa thành thị và nông thôn cũng bị rút ngắn nên bệnh gut không phải chỉ là bệnh của nhà giàu mà đã trở thành một trong những bệnh của cuộc sống văn minh hiện đại.

Bệnh chủ yếu gặp ở nam giới trưởng thành. Yếu tố gia đình thường hay gặp. Khoảng 10-30% bệnh nhân gut có người thân trong gia đình cũng mắc bệnh này. Bệnh gut đặc biệt hay gặp ở chủng tộc Polynesia, có thể là do thói quen sinh hoạt, chế độ ăn uống giống nhau trong gia đình.

Nhiều bệnh nhân mô tả các đợt sưng đau khớp dữ dội đến mức không đi lại được sau khi ăn nhiều hải sản, thịt thú rừng, thịt chó, hay đơn giản chỉ là ăn lòng lợn, tiết canh. Đặc biệt, uống nhiều rượu cũng góp phần gây tái phát bệnh.

Các tổn thương do gut gây ra

Khớp hay bị tổn thương là các khớp ở chi dưới như gối, cổ chân và đặc biệt là ở ngón chân cái. Cơn viêm khớp cấp tính thường khởi phát đột ngột và dữ dội vào nửa đêm. Khớp bị tổn thương đau ghê gớm, bỏng rát, đau làm mất ngủ, da trên vùng khớp hay cạnh khớp sưng nề, có màu hồng hoặc màu đỏ. Bệnh nhân đi lại rất khó khăn hay phải nằm bất động do đau.

Viêm khớp cấp tính thường kèm theo cảm giác mệt mỏi, đôi khi sốt 38-38,5 độ C, có thể kèm rét run. Đợt viêm khớp cấp tính do gut kéo dài khoảng 1-2 tuần rồi khỏi, không để lại di chứng nhưng rất dễ tái phát với việc xuất hiện các đợt viêm khớp mới.

Một đặc điểm nữa là khi uống thuốc colchicin thì bệnh nhân thấy giảm đau khớp nhanh trong vòng 48-72h. Nhiều bệnh nhân chủ quan không điều trị đến nơi đến chốn, hay tự điều trị bằng các thuốc khớp, đặc biệt là dùng bừa bãi các thuốc prednisolon, dexamethason. Hậu quả là bị loét dạ dày, xuất huyết tiêu hóa, gãy xương, tăng huyết áp, đái tháo đường…

Cần có một chế độ ăn uống hợp lý

Khi có các đợt viêm khớp cấp tính, bệnh nhân nên uống nhiều nước (nước chè, nước hoa quả) và ăn cháo, súp. Một chế độ ăn hợp lý cần nhiều rau xanh và hoa quả, đặc biệt là rau actisô, xà lách, cà rốt, bắp cải, dưa chuột, dưa gang, khoai tây, cà chua. Có thể ăn trứng, sữa và các chế phẩm từ sữa, phomat trắng không lên men, cá nạc, ốc sò. Ngoài ra, bệnh nhân cần tích cực uống nhiều nước, đặc biệt là nước khoáng kiềm (sô đa, nước khoáng Lavie, Vĩnh Hảo…) để tăng cường thải tiết axit uric qua nước tiểu.

Để đề phòng đợt tái phát của bệnh, ngoài chế độ dùng thuốc hợp lý, bệnh nhân còn phải phải tuân thủ một số quy tắc ăn uống, sinh hoạt khoa học để đạt trọng lượng cơ thể ở mức sinh lý.

Cần nhận thức rằng ăn uống không hợp lý là một yếu tố thúc đẩy làm xuất hiện bệnh và làm tái phát bệnh, do vậy bệnh nhân cần tự nguyện áp dụng chế độ ăn kiêng, hạn chế bia rượu.

Cụ thể lượng thịt ăn hàng ngày không nên quá 150g, đặc biệt cần tránh ăn phủ tạng động vật (lòng lợn, tiết canh, gan, thận, óc, dạ dày, lưỡi…), các loại thịt đỏ (thịt chó, dê, trâu, bê), các loại hải sản tôm, cua, cá béo), đậu hạt các loại, nấm khô, sôcôla.

Bệnh nhân cần bỏ rượu, thậm chí cả rượu vang, rượu thuốc. Một số loại thức ăn cần hạn chế sôcôla, cacao, nấm, nhộng, rau giền… Cần tránh ăn những thức ăn chua như nem chua, dưa hành muối, canh chua, hoa quả chua… vì chính những chất chua làm cho axit uric tăng cường lắng đọng vào khớp cấp tính. Bệnh nhân mắc chứng béo phì cần áp dụng chế độ ăn giảm mỡ, giảm kalo.

Tóm lại, bệnh nhân bị gut cần phải cố gắng duy trì chế độ ăn uống khoa học hợp lý như chọn cho mình các thức ăn lành mạnh, bổ dưỡng, tránh các loại thức ăn chứa quá nhiều đạm cũng như tránh thức uống có chất kích thích như bia, rượu, cả nước chanh.

Bệnh nhân gut cũng cần được sự hợp tác, thông cảm từ người thân, bè bạn trong những dịp liên hoan ăn uống. Khi đó, người bệnh sẽ có thể chủ động áp dụng chế độ ăn thích hợp với tình trạng bệnh của mình để có được cuộc sống vui vẻ và hạnh phúc.

Theo dantri

Chế độ ăn uống sai lầm dẫn đến bệnh gút

Gút là bệnh phổ biến và thường gặp nhất ở các quý ông thành đạt, quý ông thích la cà ở bàn nhậu và ít về nhà ăn cơm. Vậy nên một chế độ dinh dưỡng không phù hợp đã khiến bệnh nhân gút ngày càng gia tăng.

Rượu bia làm tăng bệnh gout

Rượu bia làm tăng bệnh gout

Bệnh gút đã được coi là một bệnh lý rối loạn chuyển hóa purin ở người, làm tăng tổng hợp acid uric và/hoặc giảm thải acid uric ra ngoài, gây tăng acid uric trong máu.
Người bị bệnh gút có biểu hiện đầu tiên là đau ở ngón (ngón cái), xuất hiện các tophy (u cục) ở khớp, quanh khớp, ở vành tai. Khởi bệnh đột ngột bằng một cơn viêm khớp cấp với tính chất: sưng, nóng, đỏ, đau dữ dội, đột ngột ở một khớp làm người bệnh rất đau đớn, không thể đi lại được.
Bệnh diễn biến từng đợt, giữa các cơn viêm cấp có những giai đoạn các khớp hoàn toàn hết đau, người bệnh tưởng mình khỏi bệnh.
Ở giai đoạn muộn, biểu hiện viêm ở nhiều khớp cả tay và chân, có thể đối xứng, xuất hiện những u cục ở nhiều nơi đặc biệt quanh các khớp, bệnh diễn biến liên miên không rõ từng đợt, giữa các đợt viêm cấp các khớp vẫn đau nhức, dần dà gây biến dạng khớp, cứng khớp, teo cơ…
Một trong những nguyên nhân trực tiếp gây bệnh gút là acid uric, vậy nên những người ăn nhiều thức ăn giàu purin sẽ làm tăng thêm tình trạng tăng acid uric máu sẵn có, thúc đẩy họ trở thành bệnh nhân gút, làm nhanh tái phát các cơn gút, khó kiểm soát bệnh và sớm trở thành gút mạn tính.
Những bệnh nhân bị béo phì, tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn lipid máu dễ bị gút và ngược lại bệnh nhân gút rất dễ bị mắc 4 bệnh trên.
Theo nghiên cứu, nguyên nhân hàng đầu dẫn tới mắc bệnh gút là do chế độ ăn uống sai lầm: uống quá nhiều rượu bia góp phần làm tăng thêm acid uric máu mà còn làm cho acid uric dễ dàng bị lắng đọng tại tổ chức, gây cơn gút cấp, gây sỏi thận.
Ăn nhiều phủ tạng động vật, thực phẩm có chứa nhiều protit, các loại thịt có màu đỏ, các loại hải sản, nấm, giá, dọc mùng… Những thực phẩm này sẽ làm gia tăng tốc độ tổng hợp acid uric trong cơ thể. Bệnh nhân gút có tầm vóc trung bình 50kg không nên ăn quá 100g thực phẩm giàu đạm mỗi ngày.
Người bị bệnh gút cũng phải dùng thuốc điều trị vì chế độ ăn uống không thể thay thế được thuốc điều trị.
Tuy nhiên, chế độ ăn uống lại trở nên quan trọng và cần thiết khi người bệnh bị dị ứng với thuốc điều trị. Và một chế độ ăn hợp lý sẽ cải thiện rất nhiều trong quá trình điều trị và phòng ngừa bệnh.
Những thực phẩm người bệnh cần dùng là: ăn các thực phẩm rau xanh giàu chất xơ như dưa chuột, rau cần, cải xanh, cải bắp, khoai tây, bí đỏ, lê, táo nho, các loại ngũ cốc… Uống nhiều nước, nước khoáng có bicarbonate, nước sắc lá sakê.
Ngoài ra, bệnh nhân gút cần có một chế độ sinh hoạt, rèn luyện thân thể một cách khoa học. Tránh làm những việc nặng, gắng sức; tránh bị lạnh đột ngột; tránh bị stress.

Theo Tiền phong Online

Bệnh gout và vấn đề ăn uống

Đón năm mới chắc chắn sẽ có tiệc, có nhiều rượu, có nhiều thức ăn ngon, có những cuộc vui, có những cố gắng, vất vả lo toan... và chắc chắn cũng sẽ có ai đó không may phải chịu đựng sự đau đớn của cơn viêm khớp gout cấp. Trong khi đó, bệnh gout liên quan chặt chẽ đến chế độ ăn uống. Ăn uống điều độ có thể làm giảm bệnh, có thể ngăn ngừa bệnh và ngăn ngừa bệnh tiến triển xấu.

Nguyên nhân và biểu hiện của bệnh Gout

Mặc dù nguyên nhân của rối loạn purine, gây bệnh Gout , hiện chưa rõ, nhiều khả năng là do những rối loạn tại gen, nhưng bệnh Gout đã được coi là một bệnh lý rối loạn chuyển hóa purine ở người, làm tăng tổng hợp acid uric và/hoặc giảm thải acid uric ra ngoài, gây tăng acid uric trong máu, gây thêm một hoặc nhiều biểu hiện sau:

- Viêm một khớp cấp (thường ở ngón chân cái) được gọi là cơn Gout cấp.

- Có các khoảng hoàn toàn khỏi giữa các đợt viêm khớp cấp.

- Xuất hiện các tophy (u cục) ở khớp, quanh khớp, ở vành tai.

- Có sỏi thận (sỏi urate), suy thận mãn.

Ở giai đoạn đầu, bệnh Gout có những đặc điểm lâm sàng khá đặc trưng, đa số dễ nhận biết nếu được chú ý từ đầu:

- Thường gặp ở nam giới (trên 95%), khỏe mạnh, mập mạp.

- Thường bắt đầu vào cuối những năm 30 và đầu những năm 40 của cuộc đời, tuổi bắt đầu làm nên của những người đàn ông thành đạt.

- Khởi bệnh đột ngột bằng một cơn viêm khớp cấp với tính chất: sưng, nóng, đỏ, đau dữ dội, đột ngột ở một khớp làm người bệnh rất đau đớn, không thể đi lại được. Hiện tượng viêm thường không đối xứng và có thể tự khỏi sau 3-7 ngày. Trong giai đoạn cấp có thể kèm các dấu hiệu toàn thân như: sốt cao, lạnh run, đôi khi có dấu màng não (cổ cứng, nôn ói...).

- Bệnh diễn biến từng đợt, giữa các cơn viêm cấp có những giai đoạn các khớp hoàn toàn hết đau, người bệnh tưởng mình khỏi bệnh.

- Ở giai đoạn muộn, biểu hiện viêm ở nhiều khớp cả tay và chân, có thể đối xứng, xuất hiện những u cục ở nhiều nơi đặc biệt quanh các khớp, bệnh diễn biến liên miên không rõ từng đợt, giữa các đợt viêm cấp các khớp vẫn đau nhức, dần dâ gây biến dạng khớp, cứng khớp, teo cơ... hoàn toàn khỏi (những năm đầu).

Các yếu tố nguy cơ của bệnh gout

Tăng acid uric máu

Nếu chỉ có tăng acid uric máu đơn thuần, không phải là bệnh Gout, đây chỉ là một tình trạng rối loạn chuyển hóa purine, làm tăng acid uric trong máu (trên 7mg% hay trên 420mmol/L) nhưng chưa gây bệnh. Tăng acid uric máu đơn thuần có tỷ lệ khá cao: từ 4- 14% dân số (tùy từng dân tộc, từng quốc gia). Tình trạng này có thể xuất hiện rất sớm, ngay lúc dậy thì. Đa số trường hợp, tình trạng này hoàn toàn không gây triệu chứng gì, thường chỉ được tình cờ phát hiện khi làm xét nghiệm.

Tăng acid uric máu được coi là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất của bệnh Gout. Lượng acid uric máu càng cao, càng nhiều khả năng trở thành bệnh Gout.

Khoảng 5-10 % số người có tăng acid uric máu sẽ trở thành bệnh nhân Gout vào cuối thập niên thứ 3 trở đi (> 35 tuổi).

Ăn nhiều thức ăn chứa purine

Trên nhóm người có tăng acid uric máu, việc ăn nhiều thức ăn giàu purine sẽ làm tăng thêm tình trạng tăng acid uric máu sẵn có, thúc đẩy họ trở thành bệnh nhân Gout, làm nhanh tái phát các cơn Gout, khó kiểm soát bệnh và sớm trở thành Gout mạn.

Uống nhiều rượu

Việc uống nhiều rượu, rượu mạnh sẽ không những góp phần làm tăng thêm acid uric máu mà còn làm cho acid uric dễ dàng bị lắng đọng tại tổ chức, gây cơn Gout cấp, gây sỏi thận... Uống nhiều rượu còn ảnh hưởng tới gan, thận, dạ dày... tới các bệnh lý đi kèm như: tim mạch, huyết áp, rối loạn lipid máu.

Béo phì, cao huyết áp, rối loạn lipid máu

Các yếu tố này vừa là các yếu tố nguy cơ, vừa là các bệnh lý thường đi kèm với bệnh Gout. Nếu không được kiểm soát tốt, các yếu tố này gây ảnh hưởng xấu tới bệnh và ngược lại nếu các yếu tố này được điều chỉnh tốt sẽ góp phần làm bệnh Gout dễ điều trị hơn.

Tại sao bệnh gout lại gia tăng

Trong vài thập niên gần đây, số lượng bệnh nhân Gout gia tăng rất nhanh trên toàn thế giới. Cùng với sự thay đổi về kinh tế - xã hội, mô hình bệnh tật của nước ta đã có những thay đổi sâu sắc. Cũng như nhiều bệnh lý chuyển hóa khác (đái tháo đường, rối loạn lipid máu, béo phì...) bệnh Gout đã trở nên rất thường gặp trong thực tế lâm sàng. Mới đây, tại Hội nghị Thấp khớp học châu Âu ở Paris tháng 6/2008, tác giả Roddy. E và cộng sự đã nêu ra những nguyên nhân chính làm bệnh Gout gia tăng trên toàn thế giới, điều này cũng hoàn toàn phù hợp với sự thay đổi đáng kể về lối sống và các điều kiện kinh tế xã hội của nước ta hiện nay:

- Tăng tiêu thụ bia và rượu trong cộng đồng.

- Tăng sử dụng thiazide và liều nhỏ aspirin cho các bệnh lý tim mạch.

- Tăng sử dụng các thức ăn giàu purine.

- Gia tăng các bệnh lý chuyển hóa (đái tháo đường, rối loạn lipid máu, tăng huyết áp...) và béo phì.

- Gia tăng tuổi thọ, tăng tỷ lệ người trên 65 tuổi trong cộng đồng (người ta nhận thấy, có mối liên quan giữa sự lắng đọng các tinh thể urate và sụn khớp bị thoái hóa, vì vậy nguy cơ bị bệnh sẽ gia tăng theo tuổi).

- Gia tăng và kéo dài thời gian sống của các bệnh nhân suy thận mãn.

Chế độ ăn uống của người tăng acid uric máu và bệnh gout

Không dùng

Không uống nhiều rượu mạnh. Không ăn các thức ăn chứa nhiều purine như: phủ tạng động vật: tim, gan, thận, lá lách, óc..., hột vịt, gà lộn, trứng cá, cá trích, cá đối, cá mòi. Không ăn mỡ động vật, không ăn đường.

Dùng hạn chế

Hạn chế protid (<1g protein/kg/ ngày tương đương < 200g thịt nạc mỗi ngày).

Không ăn nhiều (vừa phải, điều độ) đồ biển (tôm, cua...).

Không ăn nhiều (vừa phải, điều độ) các loại đậu hạt, măng tây.

Không ăn nhiều (vừa phải, điều độ) chocolate, cacao, trà, cà phê.

Dùng nhiều

Các loại rau xanh, trái cây tươi.

Uống nhiều nước, nước khoáng có bicarbonate, nước sắc lá xakê.

Các loại ngũ cốc.

Sữa, trứng.

Chế độ sinh hoạt

Chống béo phì.

Tăng cường vận động.

Tránh stress, tránh gắng sức, tránh lạnh đột ngột...

Chế độ ăn uống có thay thế được thuốc không?

Đối với bệnh Gout

Trong đa số trường hợp, chế độ ăn uống góp phần điều trị cho bệnh Gout và các bệnh kèm theo (cao huyết áp, đái tháo đường, rối loạn lipid máu...) chứ không thể thay được thuốc. Thực hiện tốt chế độ ăn uống có thể giảm bớt số lượng thuốc, số loại thuốc cần dùng, giảm bớt các hậu quả xấu của bệnh.

Chế độ ăn uống được sử dụng để thay thế thuốc trong một số ít trường hợp, người bệnh không dùng được các thuốc làm hạ acid uric (dị ứng thuốc, suy thận, suy gan...).

Đối với tình trạng tăng acid uric máu

Chế độ ăn uống và chế độ sinh hoạt sẽ giúp phòng ngừa bệnh Gout, làm giảm số người trở thành bệnh nhân Gout.

Như vậy, chế độ ăn uống không thể thay thế được các thuốc điều trị bệnh Gout, nhưng có một vai trò quan trọng trong điều trị, góp phần làm bệnh Gout và các bệnh kèm theo dễ kiểm soát hơn, giảm bớt liều thuốc phải dùng, giảm bớt số thuốc phải dùng. Chế độ ăn uống càng quan trọng hơn khi người bệnh bị dị ứng với các thuốc làm giảm acid uric máu, hoặc vì một lý do nào đó không sử dụng được các thuốc này. Chế độ ăn uống còn là biện pháp chính, không thể thiếu được trong việc phòng ngừa bệnh Gout cho các đối tượng có tăng acid uric máu đơn thuần.

Các bệnh rối loạn chuyển hóa ở người thường đi kèm với nhau, ngày càng gia tăng và đang là một hiểm họa lớn cho loài người trong thế kỷ 21. Hội chứng chuyển hóa kinh điển gồm 4 biểu hiện: béo phì, cao huyết áp, đái tháo đường, rối loạn lipid máu. Nay thêm một biển hiện thứ 5 là tăng acid uric máu, nói cách khách, các bệnh nhân béo phì, cao huyết áp, bệnh mạch vành... rất dễ bị gout và ngược lại, bệnh nhân gout thường mắc bệnh các bệnh béo phì, xơ mỡ động mạch, rối loạn lipid máu, đái tháo đường, cao huyết áp, bệnh mạch vành.

(Nguồn: Sức khoẻ và đời sống)

Dự phòng bệnh gút tái phát

Gút là một bệnh liên quan rất nhiều đến chế độ ăn uống, sinh hoạt, thường gặp ở nam giới và tuổi trung niên. Tuy bệnh được biết đến từ rất lâu nhưng thực tế việc điều trị bệnh vẫn còn nhiều bất cập, đặc biệt là khi gút tái phát.

Bệnh gút dễ tái phát

Bốn nguyên nhân chính gây tăng acid uric máu là: do tăng tổng hợp  purines và tăng cung cấp qua đường ăn uống; tăng dị hoá các acid  nhân nội sinh (tiêu tế bào, dùng thuốc điều trị ung thư); giảm thải trừ acid uric qua thận (suy thận); dùng thuốc: lợi tiểu, pyrazynamid, corticoid, aspirin liều thấp.

Điều trị cơn gút cấp thường không khó nhưng dự phòng tái phát bệnh, tránh những đợt viêm khớp tái phát và ngăn chặn bệnh chuyển sang mạn tính thường không dễ. Rất nhiều bệnh nhân và ngay cả nhiều thầy thuốc chỉ điều trị viêm khớp cấp tính, sau vài ngày hết viêm khớp tưởng đã khỏi nên không có điều trị duy trì tiếp theo. Hậu quả là sau một thời gian ngắn một đợt viêm khớp cấp tính mới lại xuất hiện và bệnh diễn biến nhanh chóng đến gút mạn tính với nhiều biến chứng nặng nề như phá hủy khớp, nổi u cục dưới da (cục tophi), sỏi thận, suy thận... Do đó việc điều trị tốt dự phòng cơn gút tái phát đóng vai trò vô cùng quan trọng nhằm hạn chế tối đa tác hại của bệnh đối với hệ xương khớp và hệ tiết niệu.

Làm thế nào để phòng ngừa bệnh tái phát hiệu quả?

Mục đích của điều trị dự phòng cơn gút tái phát là làm hạ thấp acid uric xuống dưới mức bình thường, bằng cách tác động trên các nguyên nhân gây bệnh kể trên thông qua các biện pháp sau:

Chế độ ăn cho bệnh nhân gút là ăn giảm đạm (100-150g thịt/ngày) ăn giảm kalo, giữ trọng lượng cơ thể ở mức hợp lý. Đảm bảo uống đủ nước để thận có thể lọc tốt (2-2,5l/ngày). Kiềm hoá nước tiểu để tăng đào thải acid uric qua thận bằng các loại nước khoáng có kiềm cao hoặc nước kiềm 14%.

Những thực phẩm không nên ăn: tránh thức ăn giàu purine (phủ tạng động vật như gan, óc, tim, lòng, bầu dục, một số loại nấm, măng tây, tôm, cua, cá béo, cá hộp, thịt bê, đậu hạt các loại...). Có thể ăn trứng, sữa, hoa quả. Bỏ thức uống có cồn  như rượu, bia...

Tránh lao động quá mức, tránh các yếu tố có thể khởi phát cơn gút như chấn thương...

Khi cần phải phẫu thuật hoặc mắc một bệnh toàn thân nào đó, phải chú ý theo dõi sát lượng acid uric máu để điều chỉnh kịp thời.

Cố gắng loại bỏ mọi thuốc có thể làm tăng acid uric máu nếu có thể (corticosteroid, lợi tiểu...) hoặc thay bằng các thuốc khác.

Nếu chế độ ăn đạt hiệu quả, tức là không có các cơn thường xuyên, acid uric máu dưới 60 mg/l (360 mmol/l), không có hạt tophi và tổn thương thận thì ta chỉ cần duy trì chế độ sinh hoạt và ăn uống như trên là đủ. Nếu không, chúng ta phải dùng thêm các thuốc làm giảm acid uric máu.

Biện pháp dùng thuốc:

Colchicin: Ngoài chỉ định trong điều trị cơn gút cấp, colchicin còn được sử dụng với mục đích dự phòng các cơn gút tái phát. Thuốc không làm thay đổi nồng độ acid uric máu và sử dụng liều thấp (0;5-1 mg/ngày). Cần theo dõi tác dụng phụ (tiêu lỏng...) của thuốc để điều chỉnh hay kết hợp thuốc kịp thời.

Thuốc hạ nồng độ acid uric máu: Các thuốc ức chế tổng hợp acid uric do ức chế men xanthine- oxydase, gây hạ acid uric máu và niệu. Thuốc hay được sử dụng nhất là allopurinol (zyloric) được chỉ định trong mọi trường hợp gút, nhất là trường hợp có tăng acid uric niệu, sỏi thận, suy thận. Song không nên dùng allopurinol ngay trong khi đang có cơn cấp, mà nên đợi khoảng một tháng sau mới bắt đầu. Liều thường dùng tùy theo lượng acid uric máu mà chỉnh liều. Trị liệu này có tác dụng ngăn các cơn gút cấp và làm các hạt tophi, sỏi tiết niệu nhỏ dần và có thể biến mất. Chú ý thuốc hay gây dị ứng và nếu xảy ra thì các tổn thương thường nặng.

http://img.suckhoedoisong.vn/Images/Uploaded/Share/2009/11/02/5.JPG

Một số thuốc khác như các thuốc tăng thải acid uric qua thận, và ức chế hấp thụ acid uric ở ống thận (benémid, anturan,amplivix...) làm giảm acid uric máu, song làm tăng acid uric niệu, nên có thể gây sỏi thận. Thuốc tiêu acid uric (uricozyme) là enzym uric có tác dụng chuyển acid uric thành allantoine dễ hoà tan. Các thuốc này ít được sử dụng hơn.

Mặc dù là một bệnh rối loạn chuyển hóa đòi hỏi phải điều trị và theo dõi lâu dài nhưng cho kết quả tốt nếu bệnh nhân tuân thủ tốt chế độ sinh hoạt, ăn uống và thầy thuốc sử dụng phối hợp các thuốc một cách hợp lý. Chúng ta có thể hoàn toàn phòng tránh được các biến chứng nặng nề của bệnh.  

Theo TS. Đào Hùng Hạnh (Suckhoedoisong)

NÉOAMINE điêu trị :Thoái hóa đốt sống cổ ,thoái hóa khớp,dính khớp

NÉOAMINE điêu trị :Thoái hóa đốt sống cổ ,thoái hóa khớp,dính khớp

Thoái hóa đốt sống cổ là tình trạng viêm dày và lắng tụ canxi ở các dây chằng dọc ống sống gây hẹp các lỗ chui ra của các rễ thần kinh gây đau mỏi tê, lâu dần gây yếu liệt các nơi mà rễ thần kinh này chi phối. Việc chén ép rễ thần kinh và tủy sống còn có thể do sự thoát vị của các nhân đĩa đệm chèn vào tủy sống, nếu nặng có thể gây yếu, liệt chi. Bệnh thường xuất hiện ở người đã qua tuổi trung niên (40-50 tuổi); yếu tố nguy cơ là làm việc ở tư thế cúi, cử động nhiều ở vùng đầu cổ, cường độ lao động cao. Những người dễ bị thoái hóa đốt sống cổ nhất là thợ cấy, thợ cắt tóc, nha sĩ, thợ sơn trần, diễn viên xiếc...Tùy theo loại bệnh, có thể trong một thời gian dài, người bệnh không thấy có cảm giác khác thường. Sau đó, những triệu chứng sau xuất hiện:Các động tác cổ bị vướng và đau; có thể thỉnh thoảng bị vẹo cổ.Cơn đau kéo dài từ gáy lan ra tai, cổ, ảnh hưởng tới tư thế đầu cổ, đau lan lên đầu, có thể nhức đầu ở vùng chẩm, vùng trán, đau từ gáy lan xuống bả vai, cánh tay ở một bên hay ở cả hai bên.đau, tê, nhức mỏi cổ gáy, hai vai, có lúc lan dọc hai cánh tay nhất là khi thời tiết thay đổi. Đặc biệt, do thoái hóa đốt sống cổ nên chị bị cả thiểu năng tuần hoàn não. Đầu chị lúc nào cùng nặng nề, u uất, nhiều lúc còn chóng mặt nữa. - Khám chỉ thấy các cử động ở cổ bị hạn chế (nặng); có thể cảm giác cứng gáy, có điểm đau khi ấn vào các gai xương và các mỏm ngang của cột sống cổ, chụp X-quang cột sống cổ thấy mất đường cong sinh lý, hẹp đĩa liên đốt, biến dạng ở thân đốt, có các gai xương. - Với chứng thoái hóa đốt sống cổ ở cao (đoạn C1- C2 - C4), người bệnh còn có triệu chứng nấc, ngáp, chóng mặt Thoái hóa đốt sống cổ gây tổn thương vào lỗ tiếp hợp, có thể gây rối loạn tuần hoàn não. Người bệnh cần được thăm khám lâm sàng thần kinh kết hợp với thăm dò siêu âm để xử trí kịp thời.Về điều trị, trước tiên, cần loại trừ chứng đau gáy chẩm, đau gáy bả vai, cánh tay do u hố sau, u tủy cổ. Khi đã xác định bệnh, cần điều trị thoái hóa, chủ yếu là dùng thuốc giảm đau thông thường và xoa - gõ vùng gáy, mặt, bụng.Nên dùng thêm vitamin E (400 UI/ngày). Kết hợp điều trị phục hồi chức năng chung của toàn cơ thể

.Chủ trị dùng NÉOAMINE

Viên nén bao phim Neosamine được kết hợp bởi các hoạt chất, trong đó hai chất có tác dụng chính là glucosamin và chondroitin.

-Chondroitin là một polysaccharid, dưới dạng glycosaminoglycan (GAG) được chiết suất từ sụn của cá mập (the Shark fin cartilage) tham gia vào cấu trúc màng tế bào, có trong thành phần của sợi chun các mạch máu lớn và chiếm tỷ lệ lớn trong chất căn bản của mô sụn và xương, đảm bảo cho sụn xương có độ chắc và tính đàn hồi cao. Chondroitin tham gia vào quá trình tái tạo mô sụn, xương. Tác dụng ngăn ngừa sự thoái hoá tế bào, duy trì tính đàn hồi của các cấu trúc có nhiều sợi chun (như gân, cơ, dây chằng) bằng các ức chế men elastase, đồng thời, kích thích quá trình tổng hợp proteoglycan bởi các tế bào sụn. Chondroitin cũng tham gia vào việc duy trì các hoạt động sinh lý của mắt, như: ổn định nồng độ oxy, duy trì lượng nước mắt ở mức bình thường, nhất là ở mắt những người trên 40 tuổi (thường có các túi mỡ ở dưới mắt).Chondroitin sulfat có tác dụng hỗ trợ điều trị các bệnh lý về xương khớp, đặc biệt là bệnh viêm xương khớp (osteo-arthritis). Cơ chế tác dụng của chondroitin sunfat trong việc làm giảm bệnh lý xương khớp là bảo vệ khớp (chondroprotective action) bằng cách ức chế các enzym có vai trò phá hủy sụn và kích thích tăng hoạt các enzym có vai trò xúc tác phản ứng tổng hợp acid hyaluronic (là chất giúp khớp hoạt động tốt).

-Glucosamine là một amino-monosaccharide, nguyên liệu để tổng hợp proteoglycan, khi vào trong cơ thể nó kích thích tế bào ở sụn khớp tăng tổng hợp và trùng hợp nên cấu trúc proteoglycan bình thường. Kết quả của quá trình trùng hợp là muco-polysaccharide, thành phần cơ bản cấu tạo nên đầu sụn khớp. Glucosamine sulfate đồng thời ức chế các enzym phá hủy sụn khớp như collagenase, phospholinase A2 và giảm các gốc tự do superoxide phá hủy các tế bào sinh sụn. Glucosamine còn kích thích sinh sản mô liên kết của xương, giảm quá trình mất calci của xương.

Do glucosamine làm tăng sản xuất chất nhầy dịch khớp nên tăng độ nhớt, tăng khả năng bôi trơn của dịch khớp. Vì thế glucosamine không những giảm triệu chứng của thoái khớp (đau, khó vận động) mà còn ngăn chặn quá trình thoái hóa khớp, ngăn chặn bệnh tiến triển.

Ðó là thuốc tác dụng vào cơ chế bệnh sinh của thoái khớp, điều trị các bệnh thoái hóa xương khớp cả cấp và mãn tính, có đau hay không có đau, cải thiện chức năng khớp và ngăn chặn bệnh tiến triển, phục hồi cấu trúc sụn khớp.

Ch ủ tr ị

- Tất cả các dạng viêm khớp ,dính khơp (viêm xương khớp, thấp khớp, viêm khớp tuổi thiếu niên).

- Chấn thương thể thao như chấn thương gân, dây chằng và sụn.

- Viêm hoạt dịch, viêm gân, viêm khớp, đau và sưng.• Viêm mô tế bào (phá huỷ collagen).

- Rối loạn thoái hoá collagen.• Thoái hoá cột sống ,thoái hóa đốt sống cổ

- Đau do thoái hóa khớp, viêm khớp cấp hoặc mãn tính, loãng xương.Tái tạo mô sụn khớp.

- Trung tâm Tư vân và phân phối sản phẩm

- Bệnh viên đa khoa Sông Thương -Ts Thienquang: ĐT :0972690610

- Nhà phân phối :Công ty Phú Hải : DT 02403856218

- Web: http://thuocchuabenh.net - Emall : thacsythienquang@yahoo.com.vn

- Trung tâm Tư vân và phân phối sản phẩm Tại TP Hà Nội :

- Chi nhánh số 1:Phòng khám chuyên khoa -Thạc sỹ ,bác sỹ Nguyễn Huy Cường

- Địa chỉ :Số nhà 01-Ngõ 133 - Phố Thái Hà - Đống Đa – HN

- Chi nhánh số 2 :Nhà thuốc 167 - Phố Bạch Mai - Đống Đa - HN

Thuốc điều trị bệnh gút

Gút là bệnh rối loạn chuyển hoá, biểu hiện bằng các đợt viêm khớp cấp tính và lắng đọng natri urat trong các tổ chức do tăng acid uric máu.

Điều trị

Điều trị bao gồm điều trị cơn gút cấp và điều trị hội chứng tăng acid uric máu.

Điều trị cơn gút cấp: Thuốc được lựa chọn trong điều trị cơn gút cấp là colchicin. Thuốc được uống sau bữa ăn. Tuy nhiên, thuốc có thể gây tiêu chảy, đau dạ dày, nôn mửa. Ngoài colchicin có thể dùng các thuốc kháng viêm giảm đau nhóm không steroid (indomethacin, diclofenac, ibuprofen) nhưng tác dụng kém hơn. Corticoid làm giảm viêm nhanh nhưng ngừng thuốc lại đau trở lại, hơn nữa corticoid làm tăng acid uric máu nên không dùng.

Điều trị hội chứng tăng acid uric máu: Sử dụng thuốc làm giảm acid uric máu gồm nhóm thuốc làm giảm tổng hợp acid uric như allopurinol, thiopurinol, thuốc ức chế men xanthin oxydase làm giảm tạo thành acid uric. Thuốc ít tác dụng phụ nhưng có thể gặp phản ứng dị ứng, nổi mẩn da, rối loạn tiêu hóa. Nhóm thuốc làm tăng phân huỷ acid uric là uricozym, đây là một men urat oxydase được chiết xuất từ nấm aspegilus flavus có tác dụng làm thoái giáng acid uric thành  allantoin. Allantoin có độ hòa tan gấp 10 lần so với so với uric và dễ dàng được thận đào thải. Uricozym làm giảm acid uric máu rất mạnh. Nhóm thuốc làm tăng đào thải acid uric qua nước tiểu như probenecid, sulfinpyrazon (anturan). Thuốc có thể gây phản ứng dị ứng, rối loạn tiêu hoá, chán ăn, buồn nôn, đau dạ dày, đi ngoài phân lỏng. Hai thuốc trên không được dùng đồng thời với aspirin liều nhỏ hoặc thiazid vì làm mất tác dụng đào thải acid uric. Vì thuốc làm tăng đào thải acid uric qua thận nên có thể làm tăng nguy cơ hình thành sỏi thận. Ngoài ra, cần phải kiềm hoá máu để làm tăng độ hoà tan của acid uric bằng uống các nước có kiềm (soda), nabica...

Dự phòng thế nào?

Dự phòng cơn gút cấp tái phát bằng chế độ ăn và điều trị hội chứng tăng acid uric máu để luôn duy trì nồng độ acid uric máu trong giới hạn bình thường. Người ta thấy cơn gút cấp thường xảy ra sau bữa ăn nhiều thịt, rượu, chấn thương kể cả đi giày chật. Vì vậy, người bị gút không nên ăn quá 0,8g đạm động vật/kg trọng lượng cơ thể/ngày. Không uống rượu, bia, uống nhiều nước > 2lít/ngày, nên uống các loại nước có bicacbonat. Định kỳ kiểm tra acid uric máu, dùng thuốc làm giảm acid uric máu như allopurinol, uricozym để duy trì nồng độ acid uric máu trong giới hạn bình thường. Không nên sử dụng các thuốc gây tăng acid uric máu như thiazid, ethambuton, pyrazynamid, aspirin liều nhỏ.          

PGS. TS. BS. Hà Hoàng Kiệm (BV 103)

(suckhoe&doisong)

Những điều cần biết về bệnh gout

Bấm xem ảnh ở cửa sổ mớiViêm khớp gout (bệnh gout) là một bệnh lý viêm khớp do rối loạn chuyển hóa purin, có liên quan khá nhiều đến chế độ ăn uống nhiều chất đạm, uống nhiều bia, ruợu.

Tỷ lệ mắc bệnh này ở nước ta trong 10 năm gần đây tăng rất nhanh. Gout cũng là nỗi ám ảnh đối với nhiều người bệnh do những biến chứng khủng khiếp của nó như: đau, loét, suy thận... và những biến chứng khác do dùng thuốc gây nên.

Nhận biết và chẩn đoán bệnh

Gout là một bệnh viêm khớp được coi là dễ chẩn đoán và có thể kiểm soát bằng một chế ăn uống, thuốc men hợp lí; không quá tốn kém và phức tạp.

Tuy nhiên, do nhận thức chưa đầy đủ và có sự nhầm lẫn trong chẩn đoán cũng như điều trị đã dẫn đến những hậu quả đáng tiếc làm ảnh hưởng đến sức lao động, chất lượng sống và sức khỏe của người bệnh.

Trước tình hình đó, các nhà khoa học đã đưa ra một số tiêu chuẩn để chẩn đoán nhằm khắc phục các biến chứng và nâng cao chất lượng sống cho người bệnh.

Bệnh khớp có thể được chẩn đoán sớm dựa vào:

- Giới: Nữ giới ít mắc bệnh này trong khi tới 90% người mắc bệnh là nam giới.

- Tuổi: Nam giới thường mắc bệnh lúc khoảng 40 tuổi, nữ vào độ tuổi mãn kinh.

- Vị trí khớp: Đa số bắt đầu ở khớp bàn ngón chân 1 (ngón cái) hoặc khớp cổ chân.

- Tính chất của cơn đau do viêm khớp gout: Đột ngột đau dữ dội kèm sưng tấy, nóng, đỏ, xung huyết ở một khớp, không đối xứng; thường xảy ra về đêm, thời gian đau kéo dài từ 3-10 ngày rồi có thể tự khỏi, không để lại dấu vết gì; xen kẽ là những giai đoạn hoàn toàn yên lặng.

- Điều kiện thuận lợi: Các cơn đau do gout cấp thường xảy ra sau khi ăn quá mức, uống nhiều rượu, căng thẳng, làm việc quá sức…

Khi một người mắc trên 6 trong số các triệu chứng dưới đây, cần phải nghĩ tới bệnh viêm khớp gout:

1/ Viêm khớp tiến triển tối đa trong vòng 1  ngày.

2/ Có hơn một cơn viêm khớp cấp.

3/ Đỏ vùng khớp.

4/ Sưng đau khớp bàn ngón chân 1 ở một bên.

5/ Viêm khớp bàn ngón chân 1 bên.

6/ Viêm khớp cổ chân 1 bên.

7/ Có hạt Trophi nhìn thấy.

8/ Sưng khớp không đối xứng.

Bệnh viêm khớp gout có thể nhầm với bệnh viêm khớp khác như: viêm khớp nhiễm khuẩn, viêm mô tế bào quanh khớp, chấn thương khớp, lao khớp, viêm khớp dạng thấp, viêm khớp vẩy nến, vôi hóa sụn khớp…

Điều trị bệnh viêm khớp gout

Bệnh gout nói chung được coi là một bệnh lí viêm khớp có thể kiểm soát được bằng chế độ ăn uống, sinh hoạt và thuốc men hợp lí, nhưng chế độ này phải được duy trì suốt đời.  

1/ Khống chế các đợt viêm khớp cấp hay còn gọi là điều trị cắt cơn. Ở giai đoạn này, thuốc cần đạt theo nguyên tắc: nhanh, mạnh, sớm, ngắn ngày.

2/ Điều trị ngăn ngừa tái phát cơn gout cấp, tức là làm giảm và duy trì axit uric máu ở mức cho phép với nguyên tắc khởi đầu bằng liều thấp, tăng dần tới liều điều trị, sử dụng liên tục không ngắt quãng; trong thời kì đầu cần dùng kèm các thuốc để ngừa cơn gout cấp.

3/ Có chế độ ăn uống hợp lí và kiểm soát tốt các bệnh kèm theo:

- Thay đổi thói quen ăn uống và sinh hoạt như: không ăn quá mức, không uống rượu; tránh làm việc gắng sức, lạnh, chấn thương, stress…; giảm cân nặng, hạn chế các thức ăn có nhiều purin như tim, gan, thận, óc, hột vịt lộn, cá trích, cá đối, cá mòi, măng tây...

- Điều trị và kiểm soát tốt các bệnh kèm theo như: tiểu đường, rối loạn chuyển hóa mỡ, tăng huyết áp, bệnh tim mạch…

Theo Thanh Niên

Bệnh nhân viêm khớp nên tập luyện như thế nào?

Việc tập luyện giúp giảm đau và cứng khớp, tăng sức dẻo dai, làm mạnh cơ bắp, khỏe tim. Nó còn giúp giảm cân và làm cơ thể khỏe khoắn. Tuy nhiên, nếu tập không đúng cách, bệnh sẽ nặng thêm.

Có 3 cách tập luyện tốt nhất cho người bị viêm khớp. Tập nhẹ (như khiêu vũ) giúp khớp hoạt động bình thường và giảm sự căng khớp; giúp duy trì và tăng sự dẻo dai. Tập mạnh (như cử tạ) làm mạnh cơ bắp; cơ có mạnh mới hỗ trợ và bảo vệ được các khớp bị viêm. Thể dục nhịp điệu (aerobic) hay tập luyện kéo dài (như đi xe đạp) giúp cải thiện tim mạch, kiểm soát trọng lượng cơ thể và cải thiện toàn bộ chức năng. Kiểm soát thể trọng là yếu tố rất quan trọng đối với người bị viêm khớp bởi sự dư cân sẽ làm tăng áp lực lên các khớp.

Để thiết lập chương trình tập luyện, nên tham khảo ý kiến bác sĩ chuyên khoa. Hãy khởi đầu việc tập luyện với sự giám sát của chuyên viên vật lý trị liệu. Trước hết, phải làm ấm các khớp bị viêm, khởi động với các bài tập nhẹ. Sau đó, thực hiện các bài tập nặng hơn một cách từ từ với các trọng lượng nhỏ, tập thật chậm.

Hãy chọn chương trình tập luyện phù hợp nhất và tập luyện thường xuyên với nó. Sau tập, cần dùng các túi chườm lạnh.

Các phương pháp sau sẽ giúp bạn chặn đứng cơn đau trong thời gian ngắn để thấy dễ chịu hơn khi tập luyện:

- Chườm nóng: Có thể sử dụng túi chườm nóng hay tắm nóng, thực hiện tại nhà, mỗi lần khoảng 15-20 phút, thực hiện 3 lần/ngày sẽ giúp giảm triệu chứng đau.

- Dùng sóng ngắn, vi ba và siêu âm để đưa nhiệt xuống sâu hơn ở những vùng khớp không bị viêm, thường dùng ở khớp vai để làm giãn cơ gân do tập luyện quá căng. Nhiệt sâu không được chỉ định đối với những bệnh nhân bị viêm khớp cấp tính.

- Chườm lạnh: Có thể sử dụng các túi đựng nước đá, làm giảm đau và viêm, thường dừng khoảng 10-15 phút mỗi lần. Chườm lạnh được chỉ định trong viêm khớp cấp tính.

- Thủy liệu pháp (hydrotherapy): Có thể làm giảm đau và căng cơ. Tập luyện trong bể rộng có vẻ dễ hơn bởi vì nước làm giảm sức nặng của cơ thể lên khớp bị viêm.

- Vật lý trị liệu: Bao gồm các biện pháp như kéo giãn, massage và tẩm quất. Với các chuyên viên, những phương pháp này có thể làm giảm đau và làm tăng độ dẻo dai của cơ khớp.

- Giãn cơ: Bệnh nhân cần học cách thư giãn để làm giãn cơ và giảm đau. Các chuyên viên có thể thực hiện những biện pháp giãn cơ chuyên nghiệp.

- Châm cứu: Đây là phương pháp cổ truyền của Trung Quốc có thể giúp giảm đau. Các nhà nghiên cứu tin rằng kim châm cứu sẽ kích thích các sợi thần kinh cảm giác sâu, sau đó được truyền lên não và làm giãn cơ.

BS. Nguyễn Văn Thông, Sức Khỏe & Đời Sống