Lưu trữ cho từ khóa: ức chế

Cách làm nước ép bí đao uống giảm cân

Bí đao (còn gọi là bí xanh) chứa nhiều dinh dưỡng như protit, đường, chất xơ, caroteen, vitamin PP, B1, B2, C, các chất canxi, sắt..; nhưng không có lipid. Lượng natri thấp đồng thời có thêm axit không những có thể tiêu hao lượng mỡ thừa trong cơ thể mà còn ức chế sự chuyển hóa đường thành mỡ, chống lại sự tích mỡ trong cơ thể. Uống nước bí rất ít năng lượng, nên vẫn có thể ăn thêm các thức ăn khác để cung cấp đủ dinh dưỡng. Chính vì thế, uống nước ép bí đao hằng ngày sẽ giúp bạn giảm cân hiệu quả.

Cách làm nước ép bí đao cho cô nàng muốn giảm cân1
Bí đao có nhiều công dụng, trong đó có giảm cân.

Nguyên liệu:

- 300g bí đao

- 1 thìa cà phê muối

- 4 thìa đường

Cách làm:

Cách làm nước ép bí đao cho cô nàng muốn giảm cân2
Nước ép bí đao giúp bạn giảm cân.

- Bí đao gọt vỏ, bỏ ruột, rửa thật sạch rồi thái miếng, cho vào máy ép lấy nước.

- Hòa thêm chút muối và đường rồi khuấy đều cho hai thứ nguyên liệu này tan hết.

- Có thể chia ra uống vài lần trong ngày sẽ rất tốt cho sức khỏe. Có thể thay đường trắng bằng đường phèn để có vị thanh mát hơn.

Công thức nước ép bí đao và dứa như sau:

Nguyên liệu:

- 1 quả bí xanh.

- 1-3 quả dứa.

- Vài viên đá đập vụn.

Cách làm:

- Bí xanh bỏ vỏ, cắt ruột thành từng miếng tùy ý. 

- Dứa gọt vỏ, bỏ mắt, bổ thành từng miếng tùy ý. 

- Cho bí xanh, dứa vào máy ép (hoặc có thể dùng máy xay sinh tố). Đổ nước ép ra cốc, cho thêm đá vào để được một ly nước ép hoa quả thơm ngon. 

Dứa cũng có tác dụng giảm cân vì dứa cũng như các loại quả khác là đu đủ, kiwi, trong thành phần có chứa Bromelin. Loại enzim này giúp thủy phân protein thành các axit amin, có tác dụng tốt trong việc tiêu hóa, và phân giải lượng calories thừa trong cơ thể.

Theo Webphunu

Nấm miệng Candida ở trẻ em

Nấm miệng Candida là bệnh thường gặp khiến trẻ phải đến khám tại phòng khám Nhi, cũng như phải mua thuốc tại hiệu thuốc tây. Bệnh phát hiện tình cờ qua khám, hay do triệu chứng khó chịu cho bé mà bà mẹ mang bé đến khám.

1. Nấm Candida có đặc điểm gì ?

  • Bình thường nấm Candida thường trú trên cơ thể và không xâm lấn gây bệnh;
  • Có 40% – 60% dân số là người lành mang Candida trên cơ thể;
  • Candida bình thường tồn tại ở da, hệ tiêu hóa, cơ quan sinh dục nữ… và có nhiều chủng khác nhau, trong đó chiếm tỉ lệ cao nhất là chủng Candida albicans chiếm 70%;
  • Trẻ thường nhiễm Candida trong lúc sinh khi mẹ bị nấm Candida âm đạo lúc mang thai;
  •  Nấm Candida có ở 0,5% – 20% nhũ nhi khỏe mạnh và 50% trẻ nhiễm HIV-AIDS.

2. Yếu tố thuận lợi cho nấm Candida ở miệng phát triển?

  • Hệ miễn dịch của trẻ chưa trưởng thành;
  • Vệ sinh miệng kém, đặc biệt bé mang dụng cụ chỉnh nha gây khó khăn trong vệ sinh răng miệng;
  • Trẻ bị nhiễm HIV- AIDS, ung thư, tiểu đường, suy dinh dưỡng…
  • Dùng corticoid, kháng sinh kéo dài, thuốc ức chế miễn dịch, hóa trị ung thư…
  • Chấn thương tại chỗ.

3. Nấm Candida miệng gây triệu chứng gì?

  • Không triệu chứng, hoặc tình cờ phát hiện thấy mảng trắng trên niêm mạc má hay lưỡi;
  • Trẻ biếng ăn;
  • Đau rát họng, nôn ói.

4. Khám miệng bé bị nấm miệng Candida thấy gì?

  • Các mảng trắng như sữa, hay kem, phủ trên nền hồng ban dính chặt niêm mạc lưỡi, má… khó bóc tách;
  • Đa số dạng giả mạc trắng, một số dạng bạch sản, tăng sản lưỡi, hay dạng viêm lưỡi có dạng hình thoi ở giữa lưỡi. Trẻ dùng corticoid hít trong dự phòng suyễn mà không súc miệng sau xịt có thể bị nấm miệng dưới dạng hồng ban thường thấy ở vòm họng.

Hồng ban ở vòm họng và viêm lưỡi dạng hình thoi giữa lưỡi

5. Điều trị nấm miệng ở trẻ nhũ nhi khỏe mạnh như thế nào?

  • Tăng cường vệ sinh răng miệng và loại bỏ yếu tố thuận lợi cho nấm Candida ở miệng phát triển;
  • Nystatin tại chỗ là chọn lựa an toàn;
  • Miconazole oral gel rơ miệng hiệu quả hơn nystatin và mùi vị được trẻ chấp nhận tốt hơn. Hơn nữa dạng gel thuận tiện cho bà mẹ trong sử dụng;
  • Tuyệt đối không dùng mật ong rơ lưỡi cho trẻ, nhất là trẻ nhũ nhi nhỏ hơn 1 tuổi vì trong mật ong có thể chứa bào tử clostradium botulinum, có thể chuyển dạng thành vi khuẩn gây bệnh nguy hiểm cho trẻ.

Điều trị đẹn (tưa lưỡi) do nấm Candida albican gây ra (Nguồn hình: Công Ty Janssen Cilag VN)

6. Rơ miệng thế nào cho hiệu quả và dễ chịu cho bé ?

Vì rơ miệng có thể kích thích khiến trẻ dễ nôn ói, nên việc này thực hiện tốt nhất là lúc bụng bé đói hay trống thức ăn, và nên theo các trình tự sau:

  • Vệ sinh tay mẹ thật sạch sẽ;
  • Lấy miếng gạc rơ miệng quấn quanh ngón tay (ngón chọn để rơ miệng phải có kích cỡ phù hợp độ rộng của miệng bé), nhúng miếng gạc rơ miệng trong nước sôi để nguội để làm mềm miếng gạc, nhằm tránh ma sát làm đau bé;
  • Dùng miệng gạc thấm thuốc chống nấm nystatin đã được nghiền nát hay Miconazole oral gel với lớp mỏng, vừa đủ;
  • Nếu trẻ bị nấm miệng nhiều nơi, thì nên rơ theo thứ tự: hai bên má trước, sau đó đến vùng khẩu cái trên miệng, và lưỡi rơ sau cùng. Mẹ nên rơ từ ngoài vào trong để giảm thiểu nguy cơ nôn ói cho trẻ.

Đề phòng sinh non, sảy thai do u xơ tử cung

Mặc dù đa số u xơ tử cung (UXTC) là u lành tính nhưng người bệnh cần hết sức đề phòng vì có thể bị sinh non, sảy thai, suy thai… nếu không được phát hiện và điều trị bệnh kịp thời.

Nhiều chuyên gia cho rằng UXTC có thể gây hiếm muộn do làm thay đổi lớp nội mạc tử cung, không thuận lợi cho sự làm tổ của trứng đã được thụ tinh, gây chèn ép, làm gập vòi tử cung hoặc làm bít lỗ cổ tử cung. Với những người đã mang thai, UXTC có thể làm sảy thai liên tiếp do kích thích nội mạc tử cung, ngoài ra còn có thể gây sinh non, dễ làm cho ngôi thai và nhau thai bất thường (nhau tiền đạo), gây kéo dài cơn chuyển dạ hoặc làm cho sản phụ phải mổ lấy thai. Khi sổ nhau, sản phụ có UXTC dễ băng huyết do sót nhau hoặc tử cung co hồi kém. 

(Ảnh do Nga Phụ Khang cung cấp)

Đặc biệt, UXTC còn có khả năng gây tử vong cho thai nhi (thai chết lưu). Các nhà khoa học Mỹ đã tiến hành nghiên cứu và kết luận: tỷ lệ thai nhi tử vong ở những phụ nữ mắc UXTC cao hơn nhiều lần so với những phụ nữ bình thường. Vì vậy, những thai phụ có UXTC cần được theo dõi chặt chẽ trong thai kỳ, phòng ngừa sảy thai, sinh non, tử vong thai nhi bằng cách nghỉ ngơi, dùng thuốc chống co bóp tử cung (nếu cần) theo chỉ định của bác sĩ. Trước những nguy cơ của UXTC, đặc biệt trong thai kỳ, bệnh nhân nên có biện pháp điều trị hợp lý, triệt để UXTC trước khi mang thai hoặc có dự định mang thai.

Hiện nay, nhiều bác sĩ và bệnh nhân có xu hướng lựa chọn sử dụng các sản phẩm nguồn gốc thiên nhiên, an toàn và đã được khẳng định qua nhiều hội thảo khoa học uy tín, trong đó nổi bật là thực phẩm chức năng Nga Phụ Khang. Nga Phụ Khang với thành phần chính là cây trinh nữ hoàng cung giúp giảm kích thước và ức chế sự phát triển của khối u, kết hợp với một số dược liệu quý khác như: hoàng kỳ, hoàng cầm, khương hoàng… có tác dụng thu nhỏ kích thước khối u, phòng ngừa, hỗ trợ điều trị, cải thiện các triệu chứng, ngăn chặn biến chứng của UXTC, tạo cơ hội cho chị em thực hiện thiên chức làm mẹ của mình.

Do những ảnh hưởng của khối u đến thai nhi nên bệnh nhân cần có biện pháp điều trị hợp lý, triệt để UXTC trước khi dự định mang thai bằng việc sử dụng Nga Phụ Khang hàng ngày, kết hợp với các phương pháp khác theo chỉ định của bác sĩ; nếu phát hiện UXTC khi đã mang thai thì cần được bác sĩ theo dõi thai kỳ chặt chẽ.

Nga Phụ Khang dẫn đầu dòng sản phẩm thiên nhiên

Nga Phụ Khang có thành phần chính là Trinh nữ hoàng cung phối hợp với các dược liệu quý khác, dẫn đầu dòng sản phẩm thiên nhiên trong phòng ngừa, hỗ trợ điều trị UXTC, u nang buồng trứng, ung thư cổ tử cung, rối loạn kinh nguyệt… mà không gây tác dụng phụ. Tại Mỹ, Nga Phụ Khang được sử dụng hơn 10 năm qua với tên gọi Healthy Prostate & Ovary (HPO) cho các trường hợp bị những bệnh về buồng trứng, tử cung. Để đạt hiệu quả cao nhất, người bệnh nên uống Nga Phụ Khang 3 lần/ngày, mỗi lần 2-3 viên, sử dụng theo từng đợt liên tục từ 2-3 tháng.

Điện thoại tư vấn: 04.37757066 / 08.39770707

Phát hiện enzyme điều trị ung thư trong tương lai

 

 Mới đây, các nhà khoa học của Trung tâm nghiên cứu Ung thư Deutsches Krebsforschungszenchum và Đại học Y Heidelberg, Đức đã xác định được một loại enzyme HDAC11 có thể giúp tìm ra phương pháp điều trị ung thư trong tương lai. 

Giáo sư, Tiến sĩ Olaf Witt, người đứng đầu nhóm nghiên cứu của Đại học Heidelberg và các đồng nghiệp cho rằng phải tìm ra cơ chế của các chất ức chế HDAC. Trong quá trình nghiên cứu, nhóm nhà khoa học này đã tập trung vào một “thành viên” của “đại gia đình HDAC” là HDAC11, mới được tìm ra cách đây không lâu. Qua đó, các nghiên cứu có thể thấy rất nhiều tế bào ung thư, bao gồm cả tế bào ung thư vú, gan và thận đã sản xuất lượng HDAC11 ở mức độ cao bất thường.

Các nhà khoa học cho biết thêm, điều này không thấy trong các tế bào khỏe mạnh, và hầu như HDAC11 cũng không có một chức năng cụ thể nào ở các tế bào khỏe mạnh này. “Vì vậy, HDAC11 là một chất ức chế đặc biệt chỉ nhắm vào các tế bào khối u, nơi mà các enzyme này đóng một vai trò quan trọng”. Tiến sĩ Hedwig Deubzer nói. Các nhà khoa học đã sử dụng một kỹ thuật phân tử, họ làm ngừng việc sản sinh HDAC11 trong vú, tuyến tiền liệt, ruột kết, các tế bào ung thư buồng trứng và cả các tế bào kiểm soát các mô khỏe mạnh. Kết quả là: Các tế bào ung thư không có HDAC11 (do bị ngăn lại) sẽ không có khả năng tồn tại và thường xuyên xảy ra việc chết rụng tế bào (apoptosis). Ngược lại, những tế bào khỏe mạnh, khi bị ngăn chặn HDAC11, vẫn không gây ra bất kỳ một thay đổi đáng chú ý nào.

Các nhà khoa học này cho rằng, nhiều chất ức chế cụ thể đối với các enzyme có liên quan đến những bệnh ung thư khác nhau đã được phát hiện trong những năm gần đây, và một trong số đó đã được ứng dụng trong sản xuất thuốc. Việc phát hiện ra “gót chân Achilles”, HDAC11, của tế bào ung thư cũng là một tiền đề cho các nhà khoa học này tiếp tục nghiên cứu để sớm đưa ra sản xuất thuốc điều trị căn bệnh nguy hiểm ung thư.

(Theo ANTD)

 

Biếng ăn, suy giảm miễn dịch do thiếu kẽm và selen

Tình trạng thiếu Kẽm và Selen ở trẻ em đang là vấn đề sức khỏe cộng đồng ở nhiều nước, đặc biệt là các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Con số điều tra đáng báo động tại Việt Nam cho thấy có trên 50% trẻ từ 6 tháng đến 7 tuổi thiếu Kẽm huyết thanh và Selen tương đối, trong đó nhóm gặp nguy cơ cao nhất là nhóm trẻ từ 6 tháng đến 17 tháng tuổi và nhóm trẻ gặp vấn đề về suy dinh dưỡng và tiêu chảy. Một số nghiên cứu khác cũng cho ra những con số báo động khi hàm lượng Selen huyết thanh thấp ở học sinh THCS là 15,9%, học sinh tiểu học là 75,6%, và trẻ mẫu giáo, mầm non là 62,3%.

Các nghiên cứu chỉ ra rằng:

-          26,5% trẻ từ 11-17 tuổi thiếu thiếu kẽm

-          50%-90% trẻ bị suy dinh dưỡng kéo dài thiếu kẽm

-          51,9% trẻ từ 6 tháng đến 75 tháng tuổi thiếu kẽm

-          15,9% trẻ em từ 11-17 tuổi thiếu selen

-          75,6% trẻ em cấp 1 thiếu selen

-          62,3% trẻ em từ 12-72 tháng tuổi ở nông thôn thiếu selen

Kẽm và Selen đối với tăng trưởng và miễn dịch

Đối với tăng trưởng

Kẽm giúp duy trì và bảo vệ các tế bào vị giác và khứu giác, vì thế thiếu kẽm sẽ gây biếng ăn do rối loạn vị giác, làm suy thoái quá trình phát triển và tăng trưởng bình thường ở trẻ. Kẽm tham gia vào thành phần của trên 300 enzym kim loại; kẽm là chất xúc tác không thể thiếu được của ARN-polymeraza, có vai trò quan trọng trong quá trình nhân đôi AND, tổng hợp protein, thúc đẩy quá trình sinh tổng hợp và điều hòa chức năng của trục hormone dưới đồi như GH (Growth hormone), IGF-I là những hormone tăng trưởng và kích thích tăng trưởng.

Selen cần cho chuyển hóa i-ốt và có chức năng như một loại enzyme trong quá trình tạo hormone tuyến giáp nhằm kích thích đầu vào năng lượng, cần thiết cho sự tăng trưởng, phát triển và duy trì.

Đối với miễn dịch

Thiếu kẽm làm tổn thương chức năng miễn dịch, làm tăng nguy cơ mắc các bệnh nhiễm khuẩn, từ đó làm giảm tăng trưởng, phát triển của trẻ, làm tăng nguy cơ bị suy dinh dưỡng và tử vong ở trẻ. Trong một nghiên cứu tại Mỹ cho thấy bổ sung kẽm cho trẻ giúp làm giảm 18% trường hợp tiêu chảy, 41% trường hợp viêm phổi và làm giảm tỷ lệ tử vong trên 50%.

Thiếu Selen gây ức chế khả năng đề kháng chống nhiễm trùng, hậu quả của suy giảm chức năng bạch cầu và tuyến ức bởi Selen đóng vai trò thiết yếu trong men Glutathione peroxidase ảnh hưởng tới mọi thành phần của hệ miễn dịch, không loại trừ sự phát triển và hoạt động của bạch cầu.  

Dấu hiệu của thiếu Kẽm và Selen

Thiếu kẽm, dấu hiệu thường thấy là ăn không ngon, vị giác bất thường, rụng tóc, tiêu chảy kéo dài, thương tổn ở da và mắt, chậm lớn, cơ quan sinh dục chậm trưởng thành, sụt cân, thiếu máu, chậm lành vết thương và kém minh mẫn.

Thiếu selen ở mức trầm trọng có liên quan đến bệnh Keshan – một bệnh rối loạn ở tim và tổn thương cơ tim nặng nề, xuất hiện chủ yếu ở trẻ em và phụ nữ trong tuổi sinh đẻ. Thiếu selen mức độ nhẹ thường khó thấy các triệu chứng đặc biệt, tuy nhiên nó góp phần làm xuất hiện các tổn hại tế bào quan trọng cũng như thúc đẩy quá trình lão hóa và nguy cơ mắc các bệnh thoái hóa. Thiếu selen trong chế độ ăn lâu dài dẫn đến nguy cơ ung thư, bệnh tim và suy giảm miễn dịch.

Nhu cầu Kẽm và Selen khuyến nghị cho trẻ em Việt Nam

Nhu cầu kẽm ở trẻ dưới 1 tuổi vào khoảng 5mg/ngày, ở trẻ 1-10 tuổi khoảng 10mg/ngày, thanh thiếu niên và người trưởng thành khoảng 15mg/ngày đối với nam và 12mg/ngày đối với nữ.

Nhu cầu selen ở trẻ 0-6 tháng là 6 mcg/ngày, trẻ 7-12 tháng là 10 mcg/ngày, trẻ 1-3 tuổi là 17 mcg/ngày, trẻ 4-9 tuổi khoảng 20 mcg/ngày, đối với thanh thiếu niên 10-18 tuổi nhu cầu là 26 mcg/ngày ở nữ và 32 mcg/ngày ở nam (Nguồn: FAO/WHO 2002 và 2004)

(Ảnh do Biolife cung cấp)

Nguồn cung cấp Kẽm và Selen cho cơ thể

Thức ăn nhiều kẽm là tôm đồng, lươn, hàu, sò, gan lợn, sữa, thịt bò, lòng đỏ trứng, cá, đậu nành, các hạt có dầu (hạnh nhân, hạt điều, đậu phộng…). Với trẻ nhũ nhi, để có đủ kẽm, nên cố gắng cho bú mẹ vì kẽm trong sữa mẹ dễ hấp thu hơn nhiều so với sữa bò. Lượng kẽm trong sữa mẹ ở tháng đầu tiên là cao nhất (2-3 mg/lít), sau 3 tháng thì giảm dần còn 0,9mg/l. Lượng kẽm mà người mẹ mất qua sữa trong 3 tháng đầu ước tính khoảng 1,4 mg/ngày. Do đó, người mẹ cần ăn nhiều thực phẩm giàu kẽm để có đủ cho cả hai mẹ con.

Hàm lượng Selen cao trong cá, hải sản (20,8 – 40,5 đến mcg/100g) và trứng (40,2 mcg đến 14,9 mcg/100g), vừa phải ở thịt gia cầm, đậu hạt và thấp ở sữa bò, ngũ cốc, rau và hoa quả.

Hàm lượng Kẽm và Selen từ hạt đậu xanh nảy mầm tự nhiên(Ảnh do Biolife cung cấp)

Hạt đậu xanh nảy mầm tự nhiên với công nghệ Bio-Enrich (Ảnh do Biolife cung cấp)

 

Các nhà khoa học trên thế giới đã nghiên cứu thành công công nghệ Bioenrich tăng hàng nghìn lần hàm lượng khoáng vi lượng như Kẽm, Selen, Sắt… trong mầm các loại đỗ. Với các thành tựu của khoa học và công nghệ, con người ngày càng chủ động hơn với các nguồn bổ sung khoáng vi lượng tự nhiên cần thiết hàng ngày. Gần đây nhất, công ty CP Biolife đã cho ra đời sản phẩm UpKid từ công nghệ Bioenrich (www.biolife.vn) điều khiển quá trình nảy mầm của hạt đỗ xanh, giúp chuyển hóa với hiệu suất tối đa khoáng chất vi lượng Kẽm và Selen vô cơ sang cấu trúc hữu cơ tự nhiên thân thiện với cơ thể của trẻ nhỏ, tăng khả năng hấp thu hoàn toàn tới 90%, không để lại dư thừa trong cơ thể. 

Chồng tiêu quá tay

Những người vợ có chồng “đếm củ dưa hành” khổ sở thì làm vợ của những anh chồng “vung tay” cũng ức chế.

Xót ruột vì chồng bao trọn gói chuyến du lịch cho cả nhà anh bạn, Trâm cằn nhằn suốt bữa ăn. Chồng Trâm nhăn nhó: ‘Biết rồi, nói lắm’ nhưng Trâm thừa hiểu tính chồng, bởi đây không phải lần đầu.

Yêu nhau từ hồi sinh viên, Trâm quá rõ chồng mình phóng khoáng thế nào, nhất là những “vụ” ăn uống, thết đãi bạn bè. Kết hôn xong, vì chồng luôn “vung tay” trong chi tiêu nên không ít lần Trâm thấy phiền lòng. Mấy lần, Trâm định “tóm” hết lương tháng của chồng để anh xã không có khoản dôi dư nào mà tiêu xài theo ý. Tuy nhiên, kế hoạch đó thất bại vì giữ được khoản này thì chồng Trâm lại “lòi” ra khoản khác, do tính chất công việc của chồng.

“Hóa đơn điện, nước, internet rồi truyền hình cáp hàng tháng, chồng mình luôn làm tròn số, không bao giờ lấy lại tiền thừa. Đi mua gì thì không thèm… mặc cả, người ta nói bao nhiêu cũng tươi cười… rút ví” – Trâm kể.

Ảnh minh họa
Có nhiều bà vợ đau đầu vì chồng quá “vung tay”
(Ảnh minh họa)

Chưa kể, nếu hàng xóm có sang mượn cái bật lửa, con dao thì bảo cầm luôn mà dùng, không phải trả vì nhà thừa dao, thừa bật lửa dù bật lửa chỉ có mỗi cái đó. Có ai sang xin củ gừng, quả ớt thì cho luôn cả chùm, mặc kệ ngày mai hết, Trâm phải bỏ tiền đi mua. Biết chồng kiếm được tiền, không để vợ con thiếu thốn, cũng lo vẹn tròn nghĩa vụ hai bên nội – ngoại nhưng kiểu chi tiêu của chồng thế này khiến Trâm thấy “nguy hiểm”. Trâm đã góp ý nhiều lần nhưng không ăn thua.

Hoài (27 tuổi, nhân viên kế toán ở Hà Nội) tính vốn tiết kiệm. Vậy mà chẳng hiểu thế nào lại kết hôn với một anh rất rộng rãi. Biết đến cơ quan, chồng Hoài hay “bao” mấy đồng nghiệp đi ăn sáng, Hoài nhất quyết đòi chồng phải ăn uống tại nhà nhưng chồng Hoài không chịu. Chưa hết bực mình nên Hoài lén cất toàn bộ tiền mặt và thẻ ATM trong ví của chồng để chồng không còn sẵn mà rút tiền bao đồng nghiệp nhưng bị chồng phát hiện.

“Có lúc lão nhà mình còn bị bạn bè lợi dụng vì hào phóng quá. Đám bạn lão ý ăn uống gần xong thì gọi lão ấy đến để trả tiền. Biết vậy mà còn hào hứng trả rồi về hồ hởi kể cho vợ mới chán chứ” – Hoài ngao ngán nói.

Hoài bảo, không ít lần Hoài nghĩ tới ly hôn vì không chịu nổi “triết lý” “xởi lởi trời cho” của chồng. Hoài không đến nỗi kiểm soát chồng gắt gao nhưng cái kiểu “coi tiền như lá mít” rồi “đời được mấy tý” của chồng thì chẳng mấy mà rỗng túi. Tuy nhiên, thấy chồng hay mua sắm cho vợ con, sang sửa nhà cửa, đi đâu cũng có quà cho họ hàng hai bên thì Hoài lại không đành bỏ chồng.

So với phụ nữ, nam giới bao giờ cũng được biết tới với tính cách rộng rãi trong chi tiêu. Tuy hào phóng là tốt nhưng cũng nên “đủ dùng”, nếu không sẽ thành sĩ diện, hoang phí quá mức, ảnh hưởng không nhỏ tới hạnh phúc gia đình, thậm chí còn làm khổ vợ, khổ con.

Những người vợ có chồng “đếm củ dưa hành” khổ sở thì làm vợ của những anh chồng “vung tay” cũng ức chế, mệt mỏi, thậm chí là sợ hãi lo lỡ sa cơ thì biết trông cậy vào ai… Cách tiêu tiền thuộc về tính người, do thói quen, do kiếm được nhiều tiền hay ảnh hưởng từ môi trường sống… Một khi đã kết hôn thì vợ chồng nên hoạch định với nhau về chuyện chi tiêu. Chẳng hạn, với mức thu nhập thế này của mỗi bên thì hàng tháng sẽ góp sinh hoạt, nuôi con, tiết kiệm… bao nhiêu, chi tiêu cho bản thân bao nhiêu cho phù hợp. Vợ chồng nên góp ý cách chi tiêu của đối phương để cả hai biết điều chỉnh, rút kinh nghiệm.

Nếu người chồng kiếm được nhiều tiền thì người vợ khéo léo để chồng góp “quỹ gia đình” nhiều hơn, nhằm hạn chế tối đa có tiền mà tiêu hoang. Tuy nhiên, cũng tránh chèn ép hay khiến chồng bị gò bó, bởi một khi cảm thấy bức bối thì người chồng sẽ tìm cách “vùng vẫy”, nói dối vợ để có “quỹ đen” tiêu riêng…

Khuyến khích chồng mua sắm cho con cái, sắm sửa vật dụng cho gia đình, lo tiền hiếu hỉ, thăm hỏi, giúp đỡ họ hàng hai bên cũng là cách hào phóng có ích.

(Theo Megafun)

Rụng tóc – Dùng thuốc gì?

Rụng tóc là một triệu chứng khá phổ biến mà bất kỳ người nào gặp phải cũng lo lắng. Tuy nhiên hiện nay, các nhà khoa học đã chứng minh có thể thúc đẩy quá trình mọc lại tóc nhờ vào thuốc.

Finasteride và minoxidil là hai loại thuốc có thể điều trị khỏi được vài hình thức rụng tóc. Cả hai loại thuốc này đều gây tác động đến chu trình mọc tóc và gia tăng chiều dài cũng như đường kính của sợi tóc nhưng với cơ chế khác nhau. Có hai hình thức rụng tóc khá phổ biến là Androgenetic alopecia (rụng tóc do nội tiết tố nam) và Alopecia areata (rụng tóc từng mảng). Cả hai hình thức rụng tóc này đều quan hệ đến sự biến đổi có thể phục hồi được của chu trình mọc tóc.

Rụng tóc thể Androgenetic alopecia

Là một tình trạng rụng tóc có tính di truyền do nội tiết tố nam gây ra và cả hai giới nam – nữ đều có thể mắc phải. Tình trạng này có thể được hiểu là rụng tóc hay hói đầu ở nam giới và rụng tóc ở nữ giới. Tóc thường rụng và thưa dần ở lứa tuổi từ 12 – 40 ở cả hai giới và khoảng 50% dân số có biểu hiện này trước 50 tuổi.

Mục đích của việc điều trị là làm tăng lượng tóc bao phủ da đầu và làm chậm lại sự rụng tóc. Finasteride uống và dung dịch minoxidil 2 – 5% xịt tại chỗ là phương pháp điều trị Androgenetic alopecia phổ biến hiện nay. Cả hai loại thuốc đều có tác dụng làm gia tăng lượng tóc bao phủ da đầu và chậm lại sự rụng tóc. Tuy nhiên, cả hai đều không thể phục hồi được toàn bộ lượng tóc và không phải mọi người được áp dụng đều có đáp ứng giống nhau. Thời gian điều trị cần thiết phải từ 6 – 12 tháng mới có thể cải thiện được sự mọc tóc. Việc điều trị liên tục rất cần thiết để duy trì kết quả. Nếu ngưng điều trị, tóc có thể bị rụng lại sau 6 – 12 tháng và tình trạng sẽ trở lại giống như lúc ban đầu chưa điều trị.

Ảnh minh họa (nguồn Internet).

Hiện nay, chưa có loại thuốc nào có thể điều trị hữu hiệu cho người hói đầu hoàn toàn hay người rụng không còn sợi tóc nào ở hai bên thái dương.

Finasteride được dùng an toàn và hấp thu rất tốt. Thời gian điều trị kéo dài từ 1 – 2 năm. Tác dụng phụ thường xảy ra là các rối loạn về tình dục như: giảm ham muốn, rối loạn cương dương, không xuất tinh… Các rối loạn này sẽ mất dần khi điều trị kéo dài hay biến mất hoàn toàn khi ngưng điều trị.

Minoxidil kích thích sự mọc tóc khi bị rụng tóc do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có Androgenetic alopecia. Nó có tác dụng kéo dài giai đoạn tăng trưởng và làm trưởng thành các nang tóc chín non vì bất cứ nguyên nhân nào. Khi được dùng để điều trị Androgenetic alopecia, minoxidil có thể giúp cho tóc mọc ở những bệnh nhân bị rụng tóc từng vùng, chứng thiếu lông – tóc bẩm sinh, hội chứng kém phát triển. Thuốc có tác dụng làm giãn mạch, vốn từng được dùng để điều trị tăng huyết áp và sau đó người ta phát hiện thêm đặc tính kích thích sự mọc tóc mà cơ chế tác dụng vẫn còn chưa rõ nhưng dường như độc lập với việc giãn mạch.

Minoxidil có thể được dùng tại chỗ với các nồng độ 2% và 5%, xịt 2 lần mỗi ngày. Tác dụng phụ chủ yếu ở ngoài da như: khô da, ngứa, đỏ da – tróc vẩy nhẹ… Minoxidil cũng có thể gây viêm da tiếp xúc dị ứng hay viêm da tiếp xúc dị ứng với ánh sáng. Tình trạng rậm lông tóc cũng có thể xảy ra cho nữ giới khi dùng minoxidil nhưng hiếm gặp ở phái nam.

Minoxidil 2% hay 5% đều có thể gây xáo trộn nhịp tim, huyết áp tâm thu cũng như tâm trương với liều dùng 2 lần mỗi ngày nhất là đối với dung dịch 5%.

Đối với nữ giới cũng bị rụng tóc kiểu Androgenetic nhưng thường được che phủ bởi các kiểu tóc dài. Tóc rụng ở nữ có tính cách lan tỏa khắp da đầu nhưng thường gặp ở vùng trán hay hai bên thái dương. Minoxidil hiện vẫn là thuốc điều trị tại chỗ thích hợp nhất cho phái nữ bị rụng tóc kiểu này. Dung dịch minoxidil được dùng xịt tại chỗ 2 lần mỗi ngày. Các hình thức tác dụng phụ của thuốc cũng xảy ra tương tự như ở nam giới nhưng tình trạng mọc nhiều lông có thể xuất hiện nhiều hơn ở 3-5% bệnh nhân nữ dùng minoxidil. Vị trí mọc nhiều lông thường xảy ra ở chân mày, hai bên gò má và đôi khi có ở cằm, môi trên. Tác dụng gây rậm lông này sẽ giảm hay biến mất sau khoảng 1 năm, ngay cả khi vẫn tiếp tục dùng minoxidil.

Finasteride không được dùng cho phụ nữ trong thời kỳ mang thai hay có thể mang thai vì việc ức chế 5 alpha- reductase có thể gây dị dạng cho lá phôi ngoài của phôi thai nam.

Nang có tóc và nang không tóc.

Rụng tóc thể Alopecia areata

Rụng tóc từng mảng là một bệnh tự miễn khá phổ biến. Tóc rụng thành từng đốm tròn, nhỏ lốm đốm trên da đầu và có thể xâm lấn toàn bộ da đầu gây rụng tóc toàn thể. Bệnh này có thể xảy ra cho cả hai giới nam – nữ và ở tất cả mọi lứa tuổi. Bệnh có thể giảm tự nhiên và thường hay tái phát. Các bệnh nhân này đa số khỏe mạnh nhưng thường bị bạch biến hay các bệnh về tuyến giáp nhiều hơn người khác.

Bệnh nhân bị Alopecia areata được điều trị đồng thời giữa sự điều hoà hệ miễn dịch với glucocorticoides, điều trị miễn dịch tại chỗ, anthralin hay minoxidil. Các điều trị này kích thích sự mọc tóc nhưng không ngăn ngừa rụng tóc và gần như không ảnh hưởng đến tiến trình bệnh lý. Việc điều trị được tiếp tục cho đến khi nào bệnh giảm và các đốm rụng tóc có tóc mọc lại đầy đủ, có thể kéo dài nhiều tháng đến nhiều năm. Việc chọn lựa cách điều trị tùy thuộc vào tuổi bệnh nhân và mức độ trầm trọng của sự rụng tóc. Sự điều trị có hiệu quả tốt nhất ở các trường hợp rụng tóc vừa phải và không có hiệu quả trong các trường hợp rụng tóc hoàn toàn. Các nang tóc không bị phá hủy ở các bệnh nhân bị Alopecia areata và khả năng mọc tóc lại vẫn còn duy trì.

(Theo SK&ĐS)