Lưu trữ cho từ khóa: thổ phục linh

Chữa bệnh thống phong bằng lá sakê

Theo lương y Vũ Quốc Trung, bệnh thống phong (còn gọi là gút) là bệnh tăng a-xít uric huyết thanh với những biểu hiện đau khớp cấp. Lượng a-xít uric tăng do cơ thể tăng sản xuất lượng a-xít uric, do thận đào thải kém hoặc do cả hai.


Ảnh minh họa.

Theo y học cổ truyền, thống phong là do ngoại tà xâm nhập cơ thể gây tắc nghẽn kinh lạc, khí huyết ứ trệ tại các khớp, gây đau, co duỗi khó khăn. Nếu bệnh tiến triển lâu ngày sẽ gây tổn thương đến can thận, làm biến dạng các khớp và tái phát nhiều lần... Bệnh có 2 thể lâm sàng (cấp và mãn tính).

Với cấp tính, cơn đau và khớp sưng tấy dữ dội đột ngột ở khớp bàn chân, ngón cái, thường vào ban đêm (cũng có thể ở các khớp khác), khớp đỏ sẫm, ấn đau nhiều, hoạt động hạn chế. Bệnh kéo dài 2, 3 ngày hoặc 5, 6 ngày rồi khỏi không để lại di chứng, nhưng rất dễ tái phát. Với mãn tính, thường do bệnh cấp tính chuyển thành, biểu hiện viêm nhiều khớp mãn tính (ở các khớp nhỏ, vừa và đối xứng) tái phát nhiều, khớp đau nhiều kéo dài, tại khớp có thể sưng, nóng, đỏ không rõ nhưng thường có sốt, khớp dị dạng, co duỗi khó khăn, xuất hiện nốt u cục quanh khớp, dưới da, vành tai (hạt tôphi) mềm, không đau, bên trong chứa một chất trắng như phấn. Bệnh tiến triển lâu ngày gây tổn thương thận (viêm thận kẽ, sạn tiết niệu, suy thận cấp, mạn).

Sử dụng lá sakê lâu có gây mờ mắt?

Theo lương y Quốc Trung, lâu nay, trong chuyên môn chưa nghe nói đến việc sử dụng lá sakê lâu ngày có thể gây mờ mắt. Ngoài ra, nói như thế là không có cơ sở, vì trong thành phần của lá sakê không có chất gì làm mờ mắt, gây hại mắt cả. Các kết quả nghiên cứu cho thấy lá sakê có tác dụng kháng khuẩn, tiêu viêm, lợi tiểu, bởi vậy có tác dụng chữa thống phong. Trong bài thuốc của anh Lữ Sang có phối hợp giữa lá sakê với cỏ xước và dưa leo thì càng tốt. Vì cỏ xước có tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu, trừ thấp và dưa leo có tác dụng thanh nhiệt, giải khát. Theo kinh nghiệm dân gian, chữa bệnh gút bằng lá sakê rất có hiệu quả. Cách thường dùng là: lấy 4 - 5 lá sakê, nấu ra khoảng 2 lít để uống cả ngày. Thời gian uống kéo dài khoảng 1 tháng bắt đầu có hiệu quả và chưa thấy có tác dụng phụ nào.

Ngoài ra, còn có thể sử dụng một số bài thuốc khác để chữa bệnh. Với thể cấp tính thì dùng: thạch cao 40 - 60g (sắc trước), tri mẫu 12g, quế chi 4 - 6g, bạch thược, xích thược (đều 12g), dây kim ngân 20 - 30g, phòng kỳ 10g, mộc thông, hải đồng bì (đều 10g), cam thảo 5 - 10g. Sắc (nấu) uống ngày 1 lượng như thế, uống trong thời gian bị sưng đỏ, nóng sốt. Với thể mãn tính, thì dùng bài gồm: chế ô đầu, tế tân (đều 4 - 5g, sắc trước), toàn đương quy 12g, xích thược 12g, uy linh tiên 10g, thổ phục linh 16g, tỳ giải 12g, ý dĩ nhân 20g, mộc thông 10g, quế chi 4 - 6g sắc uống.

Meo.vn (Theo Khoemoingay)

Những bài thuốc hay từ quả ớt

Theo y học cổ truyền, quả ớt còn có nhiều tên gọi khác nhau như lạt tiêu, lạt tử, ngưu giác tiêu, hải tiêu, nó thuộc họ cà. Ớt có vị cay, tính nóng, có tác dụng khoan trung, tán hàn, kiện vị, kiện tỳ, tiêu thực, kháng nham (chữa ung thư...) thông kinh lạc, giảm đau, sát trùng. Rễ ớt có tác dụng làm hoạt huyết, tán thũng. Lá ớt có vị đắng, tính mát có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lợi tiểu.

Quả ớt trị tỳ vị hư lạnh, tiêu chảy, nôn mửa, dạ dày ruột đầy trướng, mất trương lực, tích trệ, ăn không tiêu, đau nhức nửa đầu, đau lưng, đau khớp, thống phong, đau dây thần kinh, viêm thanh quản, viêm họng. Người đau dạ dày, tạng nhiệt, máu nóng không dùng ớt.

Trong kho tàng y học dân gian, trong số những bài thuốc hay, có bài thuốc chế biến từ ớt:

* Chữa viêm khớp mạn tính

Dùng 1-2 quả ớt, dây đau xương, thổ phục linh (củ khúc khắc) - mỗi vị 30g, đem nấu uống ngày 1 thang.

* Chữa sốt rét: lá ớt tươi 30g, giã nát, hòa với nước đun sôi để nguội, chắt nước cốt uống trước khi lên cơn sốt 2 giờ. Ngày 1 lần, dùng trong 5-7 ngày liền.

* Chữa trúng phong, răng cắn chặt

Lá ớt tươi (loại ớt chỉ thiên) 30-50 g, giã nát, thêm nước và ít muối, đổ nước vào miệng còn bã đắp vào răng, người bệnh sẽ tỉnh lại.

* Chữa bệnh chàm (eczema)

Dùng một nắm lá ớt còn tươi, mẻ chua 1 thìa. Hai thứ giã nhỏ, lấy vải sạch gói lại, đắp lên nơi bị chàm đã rửa sạch.

* Chữa đau lưng, đau khớp

Dùng 15 trái ớt chín, 3 lá đu đủ, rễ chỉ thiên 80g. Tất cả đem giã nhỏ rồi ngâm vào cồn với tỷ lệ 50/50, dùng để xoa bóp sẽ giảm cơn đau.

* Chữa mụn nhọt

Dùng một ít lá ớt giã nát với ít muối, rồi đắp vào nhọt đang mưng mủ sẽ bớt đau nhức, dễ vỡ mủ, mau lành.

* Chữa rụng tóc do hóa trị liệu trong ung thư

Lấy 100g ớt trái đem ngâm với rượu trắng trong độ 10-20 ngày. Dùng rượu ngâm này bôi lên da đầu để có tác dụng kích thích tóc mọc lại. Cũng trong bệnh ung thư, để giảm đau người ta ăn 5-10g ớt mỗi ngày. Và, để cải thiện tình trạng ăn uống lâu tiêu trong bệnh ung thư, người ta dùng 100g ớt, 100g hắc đậu xị đem tán bột để ăn hằng ngày.

* Chữa đau nhức

Dùng 100g ớt trái, 200ml rượu. Ớt phơi khô, cho vào rượu ngâm 1 tuần, sau đó lắc đều, lấy rượu ớt xoa bóp chỗ đau nhức vài lần trong ngày.

* Chữa rắn rết cắn, côn trùng đốt:
Ớt tươi 15 quả, lá đu đủ 3 lá, rễ ớt chỉ thiên 80g, tất cả giã nát, thêm nước, gạn nước uống, bã dùng đắp lên vết cắn. Nếu là rết và côn trùng đốt dùng lượng ít hơn. Có thể dùng riêng lá ớt tươi lượng vừa đủ giã nát, đắp vào vết cắn. Sau 15-30 phút nếu còn đau nhức làm thêm lần nữa.

* Chữa đau bụng kinh niên

Dùng rễ cây ớt, rễ chanh (mỗi thứ độ 10g) đem sao vàng, rồi sắc uống ngày 1 lượng như vậy.

* Chữa mụn nhọt, đinh độc, vết thương

Lá ớt, lá na, lá bồ công anh, lá tử vi, lá táo mỗi thứ 10-20 g, giã nát với một ít muối, đắp. Hoặc: Lá ớt, cành xương rồng bà có gai, lá mồng tơi mỗi thứ 5-10 g, giã nát nhuyễn, đắp.

 

Meo.vn (Theo Benh)

Trị sỏi thận bằng bài thuốc nam

Tôi xin hỏi về cách trị bệnh sỏi thận bằng các bài thuốc đông y?

Câu hỏi của bạn không cung cấp cho tôi những thông tin cụ thể về bệnh trạng. Đành cung cấp cho bạn những thông tin chung nhất.

Sỏi đường tiết niệu nói chung, sỏi thận nói riêng là căn bệnh không hiếm gặp ở nước ta. Một trong những nguyên nhân là thói quen uống ít nước, hay nhịn tiểu, bị nhiễm khuẩn đường tiết niệu… Sỏi nhỏ có thể tự bị đào thải theo nước tiểu.

Bệnh này khi biến chứng khá nguy hiểm vì dễ dẫn đến suy thận mãn tính. Có nhiều loại sỏi thận phụ thuộc vào thành phần hóa học có hoặc không có can xi và sỏi thận nằm ở nhiều vụ trí khác nhau như đài thận, bể thận, niệu quản hay bàng quang.

Triệu chứng của bệnh này là đau, tức vùng thắt lưng, cơn đau quặn thận, tiểu ra máu, tiểu buốt, tiểu rắt, nước tiểu đục…

Theo đông y, sỏi thận được chia làm các thể và chữa tùy theo từng thể bệnh.

Thể thấp nhiệt: biểu hiện người trì trệ, nước tiểu vàng hoặc đỏ, tiểu đục có cặn, đau nhiều, tức vùng thắt lưng.

Có hai bài thuốc là: 1. Kim tiền thảo 30g, quả dành dành 20g, vỏ núc nác 16g, hoa, lá mã đề 20g, xương bồ 8g, mộc thông 12g, tỳ giải 30g, cam thảo đất 16g, ý dĩ nhân 20g, quế chi 4g.

Cách dùng: Nếu tươi, tất cả rửa sạch, thái nhỏ, sao vàng, hạ thổ; nếu đã khô thì để nguyên, cho vào ấm đất với 4 bát nước, đun nhỏ lửa, còn 2 bát, chắt ra, cho nước sắc tiếp, mỗi lần lấy 1,5 bát, trộn chung cả 3 lần, chia uống nhiều lần trong ngày.

Uống liên tục 2 - 3 tháng. 2. Mộc thông 12g, biển súc 12g, sa tiền tử 12g, hoạt thạch 12g, cù mạch 12g, sơn chi tử 12g, đại hoàng 8g, cam thảo 6g. Cách dùng: cũng giống như bài 1.

Thể thận hư: ngoài các biểu hiện như thể thấp nhiệt thì người bệnh còn mệt mỏi, đau lưng, mỏi gối, ù tai, ngại vận động. Người bệnh là nam giới có thể di tinh, mộng tinh. Còn là nữ thì hay rối loạn kinh nguyệt.

Người ta thường dùng bài thuốc Tơ hồng (sao vàng) 30g, tỳ giải 30g, thổ phục linh 20g, mã đề 16g, hoài sơn (sao vàng) 30g, liên nhục 20g, thạch vĩ 12g, quy bản 10g. Cách dùng: tương tự như hai bài thuốc trên.

Điều quan trọng là phải phòng bệnh tái phát bằng cách uống nhiều nước, ăn nhiều rau, hoa quả tươi, tập thể dục đều đặn, tránh các loại đồ ăn có thể gây đọng can xi. Nếu có biểu hiện bệnh thì cần đi khám sớm để điều trị kịp thời.

Meo.vn (Theo Tienphong)

Bài thuốc chữa chàm da

Theo lương y Quốc Trung, Đông y chia bệnh chàm thành hai thể cấp tính và mạn tính. Tùy thể bệnh mà dùng bài thuốc thích hợp.

Thương tổn trong bệnh chàm lúc đầu xuất hiện trên da màu đỏ hồng. Những mụn nước nhỏ li ti trên nền da đỏ vỡ ra chảy nước vàng, sau vài ngày dịch khô thành một lớp vảy. Tại vùng tổn thương rất ngứa. Bệnh thường tái diễn từng đợt. Với người bệnh chàm cần hạn chế dùng món ăn cay nóng, thực phẩm có tính kích thích như rượu, cà phê, ớt, tiêu và đồ biển. Không nên tự ý bôi các loại thuốc, vì có thể khi mới dùng thuốc sẽ làm hết ngứa ngay, nhưng sẽ khiến chàm trầm trọng hơn sau đó.

Các bài thuốc

Với thể cấp tính, theo lương y Quốc Trung, có 2 dạng: thấp nhiệt và phong nhiệt. Dạng thấp nhiệt là do phong kết hợp với nhiệt và thấp, lúc đầu thấy da hơi đỏ, ngứa rồi sau một thời gian ngắn nổi cục, mụn nước, loét, chảy nước vàng. Phép chữa trong trường hợp này là “thanh nhiệt hóa thấp”, dùng bài thuốc gồm các vị: bồ công anh, cỏ mần trầu, ké đầu ngựa, kim ngân hoa, cam thảo đất, kinh giới, thổ phục linh (mỗi loại 20g), sài đất 100g. Đem sắc (nấu) với 1 lít nước, nấu còn 0,3 lít, chia uống 3 lần trong ngày (uống sau bữa ăn 30 phút).

Ké đầu ngựa - Mộc thông - Xà xàng tử / Ảnh: H.Mai

Với dạng phong nhiệt, biểu hiện da hơi đỏ, có mụn nước, phát ra toàn thân, ngứa gãi chảy nước, ít loét. Phép chữa là “sơ phong thanh nhiệt trừ thấp”, dùng bài thuốc gồm các vị: mộc thông, khổ sâm, kinh giới, phòng phong, ngưu bàng tử (mỗi loại cùng 12g), thuyền thoái 6g, tri mẫu 8g, sinh địa 16g, thạch cao 20g. Đem sắc với 1 lít nước, sắc còn 0,3 lít, chia dùng làm 3 lần trong ngày (dùng sau khi ăn 30 phút). Một liệu trình khoảng 10 ngày.

Còn với thể mạn tính thì vùng da chàm sừng hóa, dày lên và rất ngứa, bệnh kéo dài dai dẳng. Với thể này thì dùng bài thuốc có tác dụng giải độc, tiêu viêm, nâng sức đề kháng. Bài thuốc gồm các vị: củ kim càng, hoàng kỳ, sâm đại hành, đẳng sâm (cùng 15g), thổ phục linh, kim ngân hoa, hoàng bá, phòng phong, bồ công anh (cùng 10g). Cho các vị thuốc vào nồi đất cùng một lít nước, sắc còn 0,3 lít, chia uống 3 lần trong ngày, uống sau khi ăn độ 30 phút. Dùng đến khi vết chàm khô và hết ngứa.

Có thể dùng bài thuốc ngâm, rửa chàm: hoàng bá, ngải cứu (cùng 50g), xà xàng tử 20g, kinh giới 10g, phèn xanh 5g. Cho các nguyên liệu trên vào nồi cùng 3 lít nước, nấu sôi để nguội rồi ngâm vùng bị chàm chừng 10 phút, ngày ngâm vài lần. Mỗi đợt chừng 5-7 ngày.

Meo.vn (Theo TNO)

Chữa đau khớp bằng cây nhà lá vườn

Trong y học cổ truyền, đau khớp được gọi là chứng tý, tùy theo nguyên nhân và triệu chứng gây ra do các thể phong tý, hàn tý, nhiệt tý hoặc thấp tý mà dùng thuốc thích hợp.

Các cây cỏ dân gian hay dùng để chữa đau khớp dễ tìm, rẻ tiền, dễ sử dụng và có nhiều tác dụng tốt cho người đau khớp.

Cà gai leo: Dùng rễ, rửa sạch, thái mỏng, phơi khô mỗi ngày 10 - 20g sắc uống chữa  được phong thấp, đau nhức các đầu gân xương.

Cỏ xước: Dùng cả cây và rễ (có chứa nhiều saponin có tác dụng chống viêm rất tốt), mỗi ngày dùng 10 - 16g ở dạng nước sắc, uống chữa sưng khớp gối, đau nhức gân cốt, đau lưng.

Lá lốt: Dùng lá làm rau ăn và làm thuốc chữa tê thấp, đau lưng, tay chân tê dại, ngày 8 - 12g, sắc riêng hoặc sắc chung với dây đau xương, cốt khí củ, rễ cỏ xước đồng lượng. Có thể nấu nước ngâm tay chân cho người hay bị đổ mồ hôi tay chân.

Thổ phục linh: Dùng thân rễ phơi khô, có tác dụng lợi gân cốt, kiện tỳ, giải độc, tiêu phù. Mỗi ngày dùng 10 - 12g sắc uống hoặc phối hợp thành bài thuốc gồm thổ phục linh 20g, thiên niên kiện, đương quy đều 8g, bạch chỉ 6g, cốt toái bổ 10g, sắc uống hoặc ngâm rượu uống chữa phong thấp, gân xương đau nhức, tê buốt tay chân.

Ké đầu ngựa: Dùng quả chín vàng khô. Quả có vị đắng, tính mát, tác dụng tán phong trừ thấp, ngày dùng 6 - 12g dạng thuốc sắc chữa phong thấp, tay chân co rút, các khớp sưng đau.

Ngũ gia bì: Dùng vỏ thân hay vỏ rễ, dạng sắc hoặc ngâm rượu, chữa phong thấp, làm mạnh gân cốt, tăng lực.

Meo.vn (Theo Bee)

Món ăn bài thuốc từ lá lốt

Cây lá lốt còn gọi là lá lốp, thuộc họ hồ tiêu.

Ảnh minh họa - Nguồn: Internet

Ngoài cây mọc hoang, có thể trồng cây lá lốt bằng mấu thân: cắt cành thành từng khúc 20-25 m, cắm vào nơi ẩm ướt. Có thể thu hái thân và lá quanh năm để làm rau gia vị và làm thuốc. Lá lốt rửa sạch, dùng tươi hoặc phơi nắng hay sấy khô để dùng dần.

Lá lốt dùng làm rau ăn sống như các loại rau thơm khác, hoặc làm gia vị để nấu canh cá, lươn, ếch, ba ba, ốc, hến…tạo hương vị thơm ngon, khử bớt khí hàn (lạnh) của thực phẩm, giúp giảm bớt mùi tanh và chống dị ứng. Ngoài ra, lá lốt còn dùng gói thịt bò, sườn bò, thịt heo, thịt vịt, thịt cua, cá, lươn, ốc… để nướng, chiên hoặc xào với thịt bò, heo, cá, lòng gà… tạo nên hương vị hấp dẫn, ngon miệng và bổ dưỡng.

Theo đông y, lá lốt có vị cay, mùi thơm, tính ấm.Tác dụng ôn trung (làm ấm tỳ vị). Tán hàn (làm tan khí lạnh), hạ khí, chỉ thống (làm hết đau). Lá lốt thường được dùng chữa phong hàn thấp, tay chân lạnh, tê bại, các khớp đau nhức, rối loạn tiêu hóa, nôn mửa, đầy hơi, sình bụng, đau bụng, tiêu chảy, thận và bàng quang lạnh, đau răng, đau đầu, chảy nước mũi.....

Dưới đây là một số món ăn bài thuốc bạn có thể tham khảo:

Ảnh minh họa - Nguồn: Internet

Đau xương khớp: Liều dùng: 10g-20g lá khô, hoặc 30-50g lá tươi mỗi ngày. Có thể dùng thân, hoa và rễ nấu lấy nước uống và ngâm tay chân chữa đau xương, thấp khớp, tê thấp, đổ mồ hôi tay chân.

Chân tay ra nhiều mồ hôi: Lá lốt tươi 30-50g, lá ngải cứu tươi 30-50g, giã nát, cho thêm ít muối, nấu vừa sôi, ngâm chân tay đến khi nước nguội (có thể thêm ít nước sôi vừa đủ ấm để ngâm tiếp). Sau đó lau tay chân thật khô.

Phong tê thấp (phong hàn thấp gây đau lưng, sưng đầu gối hoặc tê buốt bàn chân): Lá lốt 12-16g, rễ cây cỏ  xước 12g, quế chi 8g, thiên niên kiện 8g, thổ phục linh 12g, kinh giới 8g, tầm gửi, cây dâu 12g, rễ cỏ tranh 10g. Tất cả nấu với 750ml nước, sắc còn 300ml, chia 2 lần uống ấm trước bữa ăn.

Hoặc dùng lá lốt tươi và lá ngải cứu tươi giã nát, thêm giấm, đem chưng nóng rồi chườm, đắp vào chỗ đau.

Chữa đau bụng lạnh, đi cầu lỏng, buồn nôn, nấc cụt: Dùng lá lốt tươi 30-50g, rửa thật sạch với nước muối, nhai nát để nuốt nước.

Chữa viêm xoang, chảy nước mũi đặc: Lá lốt đã rửa sạch, vò nát, nhét vào lỗ mũi.

Giải độc say nấm: Dùng lá lốt tươi, lá khế, lá đậu ván trắng, mỗi thứ 50g, rửa thật sạch, giã nát, thêm nước sạch, lọc lấy nước cốt để uống. Nếu bị rắn độc cắn, cũng nên cho nạn nhân uống nước thuốc này trong khi đưa đi cấp cứu.

Trong lá lốt có tinh dầu, nên lúc đầu không quen, thấy có mùi hơi khó chịu, nhưng khi nướng qua hoặc khi nấu vừa chín thì có mùi thơm dịu (nếu nấu quá chín thì tinh dầu sẽ bị bay hơi). Lá lốt còn được dùng để nấu canh, nướng, chiên hoặc xào thịt bò, thịt heo hay các loại thủy hải sản.

Ảnh minh họa - Nguồn: Internet

Thịt bò nướng lá lốt: Thịt bò bằm nhỏ, lá lốt lớn rửa sạch, đậu phụng rang giã dập. Gia vị: muối, tiêu, bột nêm, củ sả bằm, bột cà ri. Rau thơm các loại, xà lách, dưa leo, dứa, chuối chát, khế chua. Mắm nêm pha hoặc nước mắm pha chua ngọt. Bún và bánh tráng để cuốn. Ướp thịt bò với gia vị, củ sả bằm. Để thịt thấm đều trong 20 phút. Cuộn thịt bò  trong lá lốt thành cuốn nhỏ vừa ăn, sau đó đem nướng trên bếp than, trở đều tay cho đến khi chín đều. Khi bò nướng lá lốt chín, bày ra đĩa, rắc đậu phộng rang lên trên. Khi ăn cuốn bánh tráng với các loại rau quả và bún, chấm mắm nêm hoặc nước mắm pha tùy khẩu vị.

Ảnh minh họa - Nguồn: Internet

Canh lá lốt: Lá lốt rửa sạch, cắt nhỏ, cho vào nồi nước, nấu sôi, cho các thực phẩm chính vào (thịt, mọc, giò sống, cá, nghêu…) nấu như nấu canh, cho thêm ít gừng tươi giã dập. Nhấc nồi xuống (không cho hành ngò), cho lá rau húng quế hoặc lá ngải cứu xắt nhỏ. Ngon nhất là nấu canh lá lốt với các loại cá làm chả  viên.

Canh lá lốt rất thích hợp ăn vào mùa đông, sau đợt mưa kéo dài, giúp cơ thể  ấm, chống tình trạng ớn lạnh, nặng nề, buồn bực, không muốn hoạt động, đau nhức gân xương do các khí phong, hàn và thấp gây ra. Thường thì một người có thể ăn từ 50- 80g lá lốt mỗi ngày.

Lá lốt nấu canh với các loại nhuyễn thể như sò, nghêu, ốc, hến... hoặc cá lóc, cá trê, cá ba sa… làm chả viên, vừa thơm ngon lại vừa bổ dưỡng, có ích cho việc phòng chống bệnh tật, bảo vệ sức khỏe.

Ở vùng đồng bằng Nam bộ, lá lốt được dùng chế  biến nhiều món ngon như:

Gỏi lá lốt: Lá lốt rửa thật sạch, xắt nhỏ như sợi chỉ, vắt chanh vào ăn sống.

Lá lốt luộc: Lá  lốt luộc chấm nước mắm tỏi gừng.

Theo Lương y Đinh Công Bảy

Meo.vn (Theo PNO)

Một số bài thuốc chữa đau thần kinh tọa

Đau vùng thắt lưng là chứng bệnh thường gặp trong cuộc đời, những người trên 50 tuổi ít nhất cũng bị đau thắt lưng một đôi lần. Đau vùng thắt lưng nếu đau lan xuống mông, mặt sau đùi có thể xuống tới cổ bàn chân thì gọi là đau thần kinh tọa. Thần kinh tọa là dây thần kinh dài và to nhất trong cơ thể.

Mỗi đốt sống chứa phần tủy ở trong cho ra một đôi dây thần kinh – một dây tiếp nhận cảm giác, một dây chỉ huy vận động cân cơ ở vùng tương ứng. Để dễ hình dung ta tưởng tượng: 7 đốt sống cổ sẽ có dây chi phối vùng cổ và tay, đốt sống vùng lưng ngực và bụng sẽ chi phối vùng lưng ngực và bụng, 5 đốt sống vùng thắt lưng chi phối vùng thắt lưng, mông và chân, hoạt động của các tạng vùng hố chậu. Như vậy dây thần kinh tọa do tủy sống thắt lưng tạo nên.

Nguyên nhân đau thần kinh tọa có nhiều nhưng trên 80% là do trật đĩa đệm. Đĩa đệm là đĩa nằm giữa 2 đốt sống, để giúp đốt sống vận động dễ dàng (quay, cúi, ngửa), đĩa đệm có cấu tạo bên ngoài là tổ chức sụn bên trong chứa dịch nhầy. Các nguyên nhân khác như: thoái hóa cột sống, xẹp đốt sống, viêm đốt sống, u đốt sống, lao đốt sống, loãng xương, thủy tinh hóa xương. Một số tổn thương bên ngoài đốt sống gây chèn ép dây thần kinh cạnh đốt sống mà gây đau, kể cả người có thai tử cung lớn dần gây tăng áp tiểu khung, càng về các tháng cuối của thai kỳ lưng càng đau.

Đông y quy vùng thắt lưng là phủ của thận, đau thắt lưng là thận yếu. Thận chủ cốt, nghĩa là các loại đau xương khớp đều liên quan đến thận. Thận tàng tinh, tinh yếu thì cũng đau thắt lưng.

Thận liên quan đến bàng quang, là mối quan hệ tạng phủ – quan hệ âm dương. Kinh bàng quang chạy từ trên mắt qua đầu ra sau gáy rồi chạy 2 đường cách cột sống khoảng 2cm, xuống mông xuống mặt sau đùi, tới gót bàn chân. Như vậy đoạn từ thắt lưng xuống gót chân, bàn ngón chân trùng với đường đi của thần kinh tọa. Thần kinh tọa có nhánh thần kinh cơ bì chạy ở mặt ngoài đùi và cẳng chân.

Trên cơ thể còn có kinh đởm, đường kinh đởm chạy từ trên đuôi mắt lên đầu vòng qua tai ra mạng sườn xuống mông, mặt ngoài đùi và cẳng chân. Như vậy đoạn dưới từ thắt lưng xuống mặt ngoài cẳng chân của kinh đởm gần giống đường đi của thần kinh cơ bì của thần kinh hông.

Nên khi phòng bệnh đau thắt lưng, đau thần kinh hông cần chú ý đến phòng bệnh ở thận và phòng bệnh ở đởm. Chữa bệnh đau vùng thắt lưng, đau thần kinh hông cũng có nghĩa là chữa bệnh ở thận và chữa bệnh ở đởm nếu tính chất đau như đã tả trên.

Phòng bệnh ở thận: Từ tuổi nhỏ khi ngồi học cần nhắc trẻ ngồi đúng tư thế, lưng thẳng.

Không khiêng vác nặng kéo dài, không xách nặng lệch tư thế.

Nên tập bơi và tập thể thao phù hợp.

Hạn chế các đè nén nặng đột ngột lên cột sống.

Không nên quan hệ tình dục quá mức vì “đa dâm bại thận”.

Khi đã đau vùng thắt lưng: Nên tăng cường bơi, hằng ngày tập đứng gập người cúi đầu và chạm 2 tay xuống đất. Hoặc nằm ngửa, duỗi thẳng chân, gấp 2 chân lên bụng, thời gian tập đều và nhẹ nhàng chậm rãi, nên tập ngày 2 lần mỗi lần 30 phút.

Dùng một trong các lá sau rang nóng trải xuống giường rồi nằm đè vùng thắt lưng lên: lá ngải cứu, lá lốt, lá cúc tần, lá náng… cũng có thể rang nóng một trong các lá trên trải lên trên tờ báo, ngồi ngay ngắn đặt hai bàn chân lên, lá nguội rang lại để làm tiếp lần 2, ngày làm 1-2 lần tùy điều kiện.

Thuốc uống có thể dùng một trong các bài sau:

Bài 1: Độc hoạt 12g, đỗ trọng 20g, cẩu tích 20g, ba kích 12g, hoàng kỳ 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

Bài 2: Độc hoạt 12g, đỗ trọng 20g, phòng phong 12g, hy thiêm 12g, ngưu tất 12g, thổ phục linh 12g, xuyên khung 12g, đương quy 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

Bài 3: Thục địa 12g, hoài sơn 12g, sơn thù 8g, kê huyết đằng 12g, xích thược 12g, hồng hoa 10g, độc hoạt 12g, phòng phong 12g, hy thiêm 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

Bài 4: Sài hồ 12g, bạch thược 12g, độc hoạt 12g, đỗ trọng 20g, thổ phục linh 12g, ngưu tất 12g, bạch linh 12g, bạch truật 12g, đương quy 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

Cố gắng phòng bệnh đừng để bệnh xảy ra là tốt nhất. Khi đã bị bệnh cũng cần kiêng kỵ điều trị mới kết quả.

Sức khoẻ và Đời sống

Bài thuốc chữa bệnh quai bị

Quai bị là một bệnh truyền nhiễm do virut gây ra, bệnh thường xảy ra vào mùa đông xuân khi tiết trời mưa, lạnh, độ ẩm cao. Bệnh hay gặp ở trẻ em từ 5-10 tuổi, bệnh lây nhanh ở các lớp học, nhà trẻ mẫu giáo. Có khi người lớn cũng mắc ở các vùng dân trí thấp, vệ sinh kém. Bệnh lây qua đường hô hấp khi tiếp xúc trực tiếp như nói chuyện, ho, hắt hơi, virut khuyếch tán trong không khí nên dễ thành dịch. Theo quan niệm của Đông y cho rằng, đây là dịch độc xâm nhập vào cơ thể qua mũi, miệng vào kinh thiếu dương, đi theo đởm kinh ra ngoài phát bệnh. Đởm và can có quan hệ biểu lý tạng phủ, nên có các triệu chứng của can và kinh can kèm theo viêm tinh hoàn, sốt cao co giật… Chính vì vậy, nên khi bị quai bị thường có biến chứng viêm tinh hoàn dẫn đến teo tinh hoàn và vô sinh sau này.

Triệu chứng của quai bị xuất hiện nhanh, rầm rộ. Sau một đêm ngủ, sáng ra đã thấy má sưng ở quai hàm, có thể một hoặc hai bên cùng một lúc, sưng ngày càng to, rất nóng và đau, sờ thấy rắn, người có sốt, đau đầu, mệt mỏi, không muốn ăn, nhai đau nên chỉ nuốt chửng. Môi khô, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, người háo nhiệt, khát nước nhiều. Bệnh kéo dài từ 7-15 ngày có khi hơn. Trường hợp nặng còn sốt cao, mê sảng, viêm tuyến mang tai, viêm tinh hoàn, đau đầu dữ dội, nôn thốc nôn tháo…

Phương pháp điều trị: Chống viêm, thanh nhiệt, giải độc, chỉ thống.

Bài 1: Sài đất 20g, bồ công anh 16g, kinh giới, kim ngân, thổ phục linh mỗi thứ 12g, chỉ xác 8g, cam thảo nam 8g, bạc hà 6g. Sắc uống ngày một thang chia 3 lần.

Bài 2: Bồ công anh 16g, hạ khô thảo, kim ngân, sài hồ, mỗi thứ 12g, ngưu bàng tử, liên kiều, hoàng cầm mỗi thứ 8g. Sắc uống ngày một thang chia 3 lần.

Bài 3: Thạch cao 16g, ngưu bàng, cát căn mỗi thứ 12g, thăng ma, hoàng cầm, liên kiều, cát cánh, thiên hoa phấn mỗi thứ 8g, cam thảo 4g. Sắc uống ngày một thang, chia 3 lần.

Nếu có viêm tinh hoàn dùng thêm hạt vải 12g, khổ luyện tử 8g.

Tại chỗ vùng mang tai dùng hạt gấc mài với dấm bôi vào chỗ viêm ngày 3-4 lần.

Để bệnh nhân nghỉ ngơi tuyệt đối, tránh đi lại nhiều đề phòng biến chứng. Ăn uống chất mềm, đủ dinh dưỡng để bệnh mau chóng bình phục.

Khi có đau bụng dưới ở trẻ gái hoặc đau tinh hoàn ở trẻ trai cần dùng kháng sinh theo chỉ định của thầy thuốc.

SK&ĐS

Trị ngứa da đầu bằng những bài thuốc cổ truyền

Tôi 46 tuổi, bị bệnh ngứa da đầu đã 5 năm. Bệnh viện da liễu chẩn đoán: viêm chân tóc, chàm tiết bã, viêm da nhờn. Điều trị theo toa của bác sĩ, hết bệnh được 2 tháng, sau đó cứ lặp lại: đụng tay vào là gãi đến rướm máu, chảy dịch, tóc bết lại nơi bị viêm xước. Mồ hôi ra lại càng ngứa. Cách đây 4 tháng dùng thuốc liên tục 5 tuần, nhưng còn tệ hơn, ngưng thuốc là bệnh tái phát. Bệnh ngứa này làm tôi khó chịu quá. Rất mong bác sĩ tư vấn giúp. (Nguyễn Thị Hoa, Đà Nẵng)

- Trả lời:

Viêm chân tóc là bệnh ngoài da thường gặp, ban đầu là viêm cấp tính, sau đó rất dễ chuyển sang mạn tính, với những đợt bùng phát cấp tính, gây ngứa, xuất tiết, nổi sẩn... rất khó chịu cho người bệnh. Đối với trường hợp của bạn, chẩn đoán đã rõ ràng, điều trị có hiệu quả, tuy nhiên vì sau đó không có những đợt trị liệu củng cố nên bệnh đã chuyển sang giai đoạn mạn tính. Bệnh thường do tụ cầu gây nên mà tỷ lệ kháng thuốc của loại vi khuẩn này lại rất cao nên việc điều trị trở nên khó khăn.

Bạn nên tiếp tục trở lại bệnh viện da liễu để các thầy thuốc tái khám, và dùng thuốc phù hợp với tình trạng bệnh lý hiện tại. Bạn phải điều trị kiên trì, đúng phác đồ, đủ ngày và không được tự ý ngừng thuốc khi chưa có ý kiến của thầy thuốc.

Ngoài ra, bạn có thể sử dụng một số biện pháp chữa trị theo y học cổ truyền như: thuốc uống - dùng bài thuốc gồm các vị kim ngân hoa 20g, xuyên tâm liên 12g, hoàng cầm 10g, cúc hoa 12g, chi tử 10g, liên kiều 10g, xích thược 8g, thổ phục linh 12g, vỏ hạt đậu xanh 19g, cam thảo sống 6g, sắc uống mỗi ngày 1 thang, chia 2 lần sáng và chiều. Nếu có sốt, môi khô, miệng khát, nóng vùng đầu gia thêm sinh địa 12g, thiên hoa phấn 10g; nếu ngứa quá nhiều gia thêm bạch tiên bì 12g, khổ sâm 12g, tỳ giải 12g; nếu tổn thương sinh mủ kèm theo sốt gia thêm long đởm thảo 12g, bồ công anh 16g. Dùng thuốc gội đầu: dùng cúc hoa, bạch tiên bì, bồ công anh (mỗi vị 30g), kim ngân hoa 20g, phèn chua 20g, ké đầu ngựa 60g, hùng hoàng 10g, đại hoàng 16g, sắc lấy nước gội đầu 2 lần trong ngày, mỗi lần gội trong 15 phút. Thuốc bôi - dùng đại hoàng, hoàng bá, hùng hoàng, lưu hoàng (mỗi loại 15g), tất cả sấy khô, tán thành bột mịn, trộn với dầu vừng, đựng trong lọ kín dùng dần. Mỗi ngày bôi 2 lần vào các vùng tổn thương sau khi gội đầu.

Ths.Hoàng Khánh Toàn

(Bệnh viện 108, Hà Nội)

Chữa đau khi… cực khoái

Là cơn đau xuất hiện đột ngột khi phóng tinh do rối loạn chức năng sinh lý thường gặp ở nam giới. Tùy theo mức độ, vị trí đau và những biểu hiện lâm sàng khác nhau. Lương y Huyên Thảo (Hà Nội) giới thiệu những bài thuốc giúp bệnh nhân điều trị căn bệnh éo le này.

Có nhiều nguyên nhân gây bệnh: do bao quy đầu quá hẹp, bị viêm nhiễm cơ quan sinh dục, sử dụng thuốc chống trầm cảm, an thần, dịch âm đạo có độ acid quá cao...

Theo Đông y, chứng phóng tinh đau có liên quan tới trạng thái bệnh lý ('thấp nhiệt'; 'khí trệ, huyết ứ'; 'can thận âm hư'; 'can khí uất kết'...). Lương y Huyên Thảo lưu ý người bệnh cần căn cứ vào những triệu chứng cụ thể để chọn sử dụng bài thuốc hợp lý sau đây:

Bài 1

Thành phần: Đương quy 15g, đào nhân 10g, hồng hoa 10g, xuyên khung 10g, sài hồ 10g, chỉ xác 15g, cát cánh 6g, ngưu tất 10g, sinh địa 15g, diên hồ sách 15g, trần bì 15g, hương phụ 10g, bồ công anh 30g, dây kim ngân 15g. Gia giảm: Đau dữ dội, thêm: Nhũ hương 10g, một dược 10g, ngô công 2 con.

Cách sử dụng: Cho thuốc vào nồi. Cho nước ngập trên mặt thuốc. Đun to lửa cho sôi, sau đó đun nhỏ lửa 20-30 phút rồi chắt nước ra. Sắc 2 nước. Nước thứ nhất đổ nước cao hơn mặt thuốc 4cm và hầm thuốc 30 phút. Nước thứ hai ngập 2cm và hầm 20 phút. Hợp 2 nước lại, chia 2-3 lần uống trong ngày, cách xa bữa ăn. Uống theo từng liệu trình 10 ngày, giữa các liệu trình nghỉ 3- 4 ngày.

Tác dụng : Hành khí giải uất, hoạt huyết hóa ứ, thanh nhiệt giải độc, chỉ thống (giảm đau). Dùng chữa đau như thắt, như dùi khi phóng tinh, ở dương vật, vùng xương mu, vùng hội âm. Kèm theo chứng trạng như: ngực sườn đầy tức, thần trí u uất, chất lưỡi tím tái, mạch nhỏ rít hoặc cơ quan sinh dục bị tổn thương.

Bài 2

Thành phần: Hạt mã đề 20g, biển súc 20g, cỏ roi ngựa 3g, thổ phục linh 30g, hổ trượng căn 20g, xuyên sơn giáp 10g, xuyên tâm liên 8g, mộc thông 10g. Gia giảm: Tinh hoàn sưng đau, thêm: Ô dược 10g, xuyên luyện tử 10g. Đau vùng hội âm, thêm: Đại hoàng 10g, diên hồ sách 10g, Tinh dịch có lẫn huyết khối đen, thêm: Bồ hoàng 10g, kim tiền thảo 15g. Người uể oải, mệt mỏi, thêm: Hoàng kỳ 30g, đẳng sâm.

Cách sử dụng: như bài 1.

Tác dụng: Chữa phóng tinh đau do viêm túi tinh.

Bài 3

Thành phần: Hoàng bá 15g, trí mẫu 12g, sinh địa 15g, thục địa 15g, quy bản (sắc trước 20 phút) 20g, trạch tả 10g, chỉ xác 10g, diên hồ sách 10g, cam thảo 6g,

Cách sử dụng giống như bài 1.

Tác dụng: Bổ âm, lương huyết, chỉ thống. Chữa vùng bụng dưới, bẹn và vùng hội âm đau khi xuất hiện xung động tình dục và đau tăng lên khi phóng tinh kèm theo những chứng trạng như tinh thần uể oải, lưng gối đau mỏi, tai ù, mắt hoa, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi ít, mạch nhỏ nhanh.

Bài 4

Thành phần: Sinh địa 20g, mộc thông 20g, cam thảo 9g, trúc diệp (lá tre, trúc) 12g, mã đề 12g, liên tử tâm (tâm sen) 9g, diên hồ sách 10g.

Cách sử dụng như bài 1.

Tác dụng: Thanh tâm, tả hỏa, chỉ thống. Chữa bẹn và hội âm đau từng cơn trong quá trình giao hợp. Kèm theo những triệu chứng toàn thân như bồn chồn, nóng ngực, miệng khát, tiểu tiện nóng đỏ, đêm ngủ không yên, đầu lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng mỏng.

Theo Thanh Niên