Lưu trữ cho từ khóa: sài hồ

Món ăn giúp chống uể oải và hay buồn ngủ

Có những người mặc dù thời lượng ngủ đầy đủ, thế nhưng kho thức dậy lại có cảm giác như thiếu ngủ, khi làm việc uể oải và muốn ngủ.


Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Y học cổ truyền (YHCT) có những món ăn giúp khắc phục tình trạng trên.

Theo YHCT, hiện tượng trên có nhiều nguyên nhân gây nên, chúng ta cần phân biệt để dùng những món ăn thích hợp cho mình.

Do đàm thấp tích tụ trong cơ thể

Thường do thay đổi thời tiết (mưa, ẩm thấp…), tình chí biến động, ăn uống không hợp lý làm cho tân dịch không vận hóa được, hóa thấp, thấp sẽ hóa đàm. Đàm đi lên não bộ, khiến cho tinh thần không được sảng khoái, trí óc kém minh mẫn, hay buồn ngủ, người nặng nề, rêu lưỡi dày nhớt. Nên dùng những món ăn sau:

Cháo trần bì, sơn dược, bán hạ: nấu các dược liệu sau: vỏ quýt tươi 20g, sơn dược 12g, bán hạ 8g trong thời gian 30 phút. Chắt lấy nước thuốc để nấu cháo với 50g gạo. Nên ăn cháo khi còn nóng.

Cháo gạo, thịt nạc, trần bì: thịt nạc 100g băm nhỏ, ướp với hành, tiêu, nước mắm ngon trong thời gian 20 phút.

Nấu 20g vỏ quýt tươi trong thời gian 10 phút rồi gạn lấy nước thuốc. Cho 50g gạo vào nước thuốc nấu cho nhừ, bỏ thịt nạc đã ướp vào. Khi thấy thịt chín thì nhắc xuống. Dùng khi ấm. Nước uống: trần bì 12g, sơn tra 12g nấu trà uống.

Do khí hư

Người mệt mỏi, làm việc hay thở dốc, dễ ra mồ hôi. Ăn uống kém, phụ nữ kinh nguyệt kéo dài và có thể sa nội tạng (sa tử cung, trĩ…). Nên dùng những món ăn sau:

Đùi gà hầm bổ trung ích khí: 2 đùi tỏi gà ướp nước tương, bột nêm, tiêu, hành, đường trong vòng 20 phút. Cho vào nồi đất 750ml nước hầm xương. Đun sôi nước rồi cho 2 đùi gà đã ướp vào. Sau khi vớt hết bọt cho trong nước thì cho vào những dược liệu sau: nhân sâm 12g, bạch truật 12g, cam thảo 2g, đương quy 12g, trần bì 4g, sài hồ 6g, thăng ma 4g, hoàng kỳ 12g. Vặn nhỏ lửa và nấu thêm 20 phút nữa.

Bò hầm nhân sâm, táo đỏ: thịt bò 150g cắt thành những miếng dày khoảng 3cm. Ướp gia vị. Cho vào nồi đất thịt bò đã ướp cùng với những dược liệu sau: nhân sâm 12g, táo đỏ 10 quả. Hầm với lửa nhỏ trong thời gian 30 phút.

Thịt thỏ hầm đẳng sâm, hoàng kỳ, sơn dược, câu kỷ tử, táo: thịt thỏ ướp với dầu hào, bột nêm trong thời gian 20 phút. Cho thịt thỏ vào nồi đất cùng với những dược liệu sau: đẳng sâm 12g, hoàng kỳ 12g, sơn dược 12g, câu kỷ tử 12g, táo 7 quả. Chế vào 500ml nước hầm xương. Hầm trong thời gian 20 phút.

Vịt hầm đẳng sâm, hoàng kỳ: thịt vịt 150g ướp với nước tương, bột nêm, tiêu, hành, gừng, đường, 15ml rượu trắng trong thời gian 20 phút. Đun sôi 600ml nước hầm xương rồi cho thịt vịt vào cùng với những dược liệu sau: đẳng sâm 12g, hoàng kỳ 12g. Hầm trong thời gian 25 phút.

Do huyết hư

Hay bị váng đầu, ù tai, hồi hộp, sắc mặt vàng, môi tái. Mạch tế sác. Nên dùng món ăn sau:

Dê hầm đương quy: thịt dê 100g, đương quy 12g.

Thịt dê ngon 100g ướp nước tương, bột nêm, tiêu, gừng, hành, đường, 15ml rượu trắng trong thời gian 20 phút.

Lấy một chiếc nồi đất, cho khoảng 500ml nước hầm xương vào cùng với 12g đương quy và thịt dê đã ướp. Tiến hành rồi đun sôi với lửa nhỏ trong thời gian 30 phút. Nhắc nồi xuống, rắc hành, ngò, tiêu vào. Nên dùng khi còn ấm.

Do khí huyết lưỡng hư

Bao gồm những triệu chứng của khí hư và huyết hư. Trường hợp này nên dùng món ăn sau:

Gà hầm thập toàn đại bổ thang: thịt gà 120g được ướp gia vị. Đun sôi 750ml nước hầm xương, cho thịt gà vào. Vớt hết bọt rồi cho vào những dược liệu sau: nhân sâm 12g, bạch linh 12g, bạch truật 12g, cam thảo 2g, đương quy 12g, hoàng kỳ 12g, bạch thược 12g, xuyên khung 6g, nhục quế 2g, thục địa 12g. Đun thêm 20 phút nữa bằng lửa nhỏ.

BS. Hồ Đăng Khoa

Meo.vn (Theo SK&ĐS)

Đông y trị chứng căng thẳng khi mãn kinh

Đông y cho rằng, chứng căng thẳng trước kỳ kinh nguyệt xuất hiện do khí chất không tốt, âm hư, gan vượng, kinh mạch không thông, tâm thần suy yếu.

Để điều trị chứng bệnh này, tùy vào cơ địa bệnh nhân mà có thể dùng các bài thuốc như sau.

Bài 1: Biểu hiện như tình chí uất ức, tâm thần không ổn định, ngực căng tức, hay thở dài, bụng trên trướng, ợ hơi, ợ chua hoặc đau đầu, đại tiện thất thường, mạch huyền. Có thể dùng bài thuốc: Cam thảo 6g, chỉ thực 6g, sài hồ 6g, thược dược 9g, hương phụ chế 4g, uất kim 4g, thanh bì 3g. Cho 800ml nước sắc còn 200ml, sắc 2 lần, ngày uống 1 thang chia 2 lần.

a
Đông y cho rằng, chứng căng thẳng trước kỳ kinh nguyệt xuất hiện do khí chất không tốt, âm hư, gan vượng, kinh mạch không thông, tâm thần suy yếu
Bài 2: Biểu hiện như đau đầu, mệt mỏi. Có thể dùng bài thuốc: Tử hồ, đương quy, bạch truật, bạch thược, phục linh, uất kim, thanh bì, qua lâu, bạch chỉ, xuyên khung, hương phụ mỗi thứ 9g, cam thảo 6g, sắc lấy nước uống.

TS Đỗ Việt Hương
Meo.vn (Theo Bee)

Ăn uống khi gan nhiễm mỡ

Thường khi kiểm tra sức khỏe định kỳ, kết quả hay cho ra gan nhiễm mỡ khiến nhiều người thấy lo lắng.

Lương y Như Tá cho rằng, phần lớn các trường hợp gan nhiễm mỡ chưa phải là bệnh lý của gan, mà đó chỉ là sự tích lũy mỡ quá nhiều tại gan mà thôi. Vì thế, cải thiện tình trạng gan nhiễm mỡ cần điều chỉnh lại các yếu tố nguy cơ. Thường gan nhiễm mỡ hay gặp ở những người béo phì, nghiện rượu, tiểu đường dạng 2; dùng nhiều thức ăn giàu năng lượng, chất béo...

Đa phần những người có gan nhiễm mỡ không có biểu hiện triệu chứng, mà biết được là qua xét nghiệm. Tình trạng tích mỡ tại gan diễn ra từ từ nên các biểu hiện của nó cũng khó cảm nhận được. Chỉ khi nào tốc độ lắng đọng mỡ trong gan xảy ra nhanh, lúc đó gan có thể lớn, bao gan căng ra và khi đó bệnh nhân có thể có cảm giác đau tức hoặc nặng vùng gan.


Bắp, rau muống, cà rốt... cải thiện tình trạng gan nhiễm mỡ - Ảnh: Minh Khôi - Hạ Huy

Ăn uống, bài thuốc

Theo lương y Như Tá, với người khi xét nghiệm cho biết gan nhiễm mỡ, thì cần giảm thức ăn béo, giảm lượng mỡ động vật, lòng đỏ trứng, tránh rượu, hạn chế dùng phủ tạng động vật. Nên dùng nhiều rau củ quả tươi xanh, như cải xanh, cải cúc, rau muống, cà chua, cà rốt, mướp, dưa chuột, quả dâu, bắp, trà xanh... Bên cạnh đó cần vận động cơ thể nhiều hơn.

Ngoài ra, theo lương y Như Tá, tùy vào thể bệnh mà y học cổ truyền có những bài thuốc khác nhau. Với thể can khí uất kết - người hay khát nước, tiểu ít, hông sườn đầy tức, bụng đầy; có thể dùng bài thuốc gồm các vị: bạch thược, bạch truật (cùng 15g), chỉ thực, phục linh (cùng 30g), đương quy 12g, sài hồ, sơn tra, uất kim (cùng 12g), bạc hà, chỉ xác (cùng 8g), cam thảo 6g, sắc (nấu) uống.

Nếu thể khí trệ huyết ứ thì biểu hiện hay mệt mỏi, hay đau nhói trước ngực; có thể dùng bài thuốc gồm các vị: sinh địa, đương quy, bạch thược (12-16g), đào nhân, xuyên ngưu tất, sài hồ (cùng 10-12g), đơn sâm 12g, hồng hoa, sung quý tử, chỉ thực, hương phụ, xuyên khung, ô dược, uất kim (cùng 8-10g).

Nếu thể tỳ hư đờm thấp, biểu hiện chân tay mệt mỏi, ăn kém, bụng đầy...; trường hợp này có thể dùng bài thuốc gồm các vị: đảng sâm, bạch truật, bạch linh, trúc nhự (cùng 10-12g), trần bì, bán hạ, chỉ thực, mộc hương, sa nhân, uất kim (cùng 6-10g), chích thảo 3g, ô dược 10g, sơn tra 10g, sắc uống. Cách sắc như sau: cho các vị thuốc vào nồi cùng 3 chén nước, nấu còn 1 chén, chắt nước ra; cho tiếp 2 chén nước vào, sắc còn nửa chén. Hòa hai nước lại, chia làm 3 lần dùng trong ngày.

Meo.vn (Theo TNO)

Người sa tử cung nên ăn gì?

Sa tử cung là gì?

Sa vách âm đạo xảy ra khi các cơ vùng chậu yếu đi khiến cho nhiều cơ quan vùng chậu tuột xuống âm đạo. Các cơ quan này gồm: bàng quang, trực tràng và niệu đạo, nhưng cơ quan hay bị sa nhất là tử cung. Tử cung bị tuột xuống đẩy vách âm đạo xuống. Nếu nặng cổ tử cung có thể nhô ra khỏi âm đạo.

Nếu trực tràng phồng lên phía vách sau âm đạo được gọi là sa trực tràng. Niệu đạo phồng lên phía vách trước âm đạo là sa niệu đạo và bàng quang tuột xuống phía trước vách âm đạo là sa bàng quang.

Đau lưng, đau nhiều trong suốt thời gian giao hợp hoặc không thể đạt được cực khoái; tiểu tiện không tự chủ do căng thẳng thần kinh; cảm giác bị trì xuống trong vùng chậu; sa niệu đạo hay mót đi tiểu; sa bàng quang hay mót tiểu, có triệu chứng đau và nóng rát trong lúc đang tiểu giống như viêm bàng quang; sa trực tràng, khi đại tiện thấy khó chịu, khó đi ngoài.


Các bài thuốc đơn giản chữa sa tử cung:

- Rễ đào 60g, sắc uống ngày 2 lần.

- Rễ bạch bối 30g sắc uống ngày 2 lần.

- Vỏ chấp 30g, nghệ vàng 15g, một ít đường đỏ, sắc uống ngày 2 lần.

- Sâm 10g, hoài sơn 12g, ngô thù du 10g, đỗ trọng 12g, thăng ma 6g, sài hồ 5g, phúc bồn tử 12g, chi tử 10g, đương quy 10g. Sắc uống ngày 2 lần.
Củ nghệ và vừng đen.

Các món ăn hỗ trợ:

- Ruột lợn (lòng già) 250g, vừng đen 100g, thăng ma 9g. Rửa sạch lòng lợn, lấy vải màn gói lại cùng với vừng đen cho vào ruột lợn, cho vào nồi đất, đổ nước ninh nhừ, bỏ thăng ma, cho thêm gia vị. Ăn ngày 2 lần, ăn cái uống nước, mỗi tuần 2 - 3 lần.

- Cùi vải khô 200g, rượu vàng 1.000ml, ngâm sau 7 ngày lấy ra uống mỗi buổi sáng và buổi tối uống 30ml.

- Đầu ba ba từ 5-10 cái, rửa sạch, thái nhỏ, bỏ vào nồi đất sao vàng, nghiền thành bột, trước khi đi ngủ uống 3g với rượu.

Phải làm gì khi sa tử cung?

- Chú ý nằm nghỉ ngơi, khi ngủ kê cao mông hoặc chân giường kê cao hai hòn gạch; người gầy yếu sau khi sinh đẻ không nên lao động nặng sớm; tránh những động tác đè nén lên bụng như đứng lâu, ngồi lâu hoặc nín hơi…; giữ cho đại tiện dễ dàng, tránh táo bón; kịp thời điều trị những bệnh tật làm tăng áp lực đối với ổ bụng như: ho…; tăng cường dinh dưỡng, nên ăn những thức ăn có tác dụng bổ khí, bổ thận như: thịt gà, sơn dược, biển đậu, hạt sen, hạt súng, lươn, chạch, rau hẹ, đại táo; hạn chế sinh hoạt vợ chồng.

Chú ý: Người sa tử cung không lấy tay ấn vào âm đạo, không nên dùng băng đỡ tử cung, kể cả thời kỳ kinh nguyệt.

Nếu bộ phận sa xuống viêm nhiễm đau đớn, lở loét, chảy nước vàng hoặc chảy mủ, nên uống thuốc tiêu độc, rửa sạch phía ngoài, sau khi khỏi viêm nhiễm mới được dùng các phương pháp điều trị khác như phẫu thuật nếu sa độ 3, 4.   

Lương y Hoài Vũ

Meo.vn (Theo SKĐS)

Mướp đắng trị ho, ổn định huyết áp

Theo Đông y, mướp đắng vị đắng, tính mát, hơi hàn. Mướp đắng đun làm nước tắm cho trẻ trong mùa hè để trừ rôm sảy, làm thuốc chữa ho, chữa cảm mùa hè, thanh nhiệt ở phế và vị, chữa dị ứng, đau váng đầu, đau thắt ngực, lở ngứa ngoài da, phụ nữ rối loạn kinh nguyệt, bí kết đại tràng. Ngoài ra còn có tác dụng an thần, kết hợp với những vị khác để điều trị tăng huyết áp. Mướp đắng chế biến làm thuốc bằng cách thái lát, phơi khô, sao vàng rồi bảo quản để dùng dần. Lá mướp đắng có thể dùng tươi, giã đắp, nấu nước tắm hoặc sắc uống.

Mướp đắng trị ho, ổn định huyết áp
Mướp đắng là vị thuốc tốt trị ho, ổn định huyết áp.

Mướp đắng được dùng làm thuốc trong các trường hợp sau:

Mùa hè bị cảm thử: ra nhiều mồ hôi, hoa mắt chóng mặt, thở nông hụt hơi, buồn nôn, người chao đảo, mệt lả: mướp đắng 20g, biển đậu 16g, tang diệp 16g, hoàng kỳ 12g, mẫu lệ (chế) 12g, đương quy 12g, sa sâm 12g, quế 8g, cam thảo 12g. Sắc uống ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần.

Ho, đau rát họng, sổ mũi, hắt hơi: mướp đắng 20g, tía tô 16g, trần bì 12g, cát cánh 12g, mạch môn 16g, sâm hành 12g, sinh khương 6g, kinh giới 12g, cam thảo 12g, lá xương sông 16g. Sắc uống ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần.

Ngứa nhiều, gãi nhiều, da bị trầy xước từng mảng: mướp đắng 20g, sài hồ 12g, ngân hoa 10g, liên kiều 12g, nam hoàng bá 16g, cỏ mực 16g, hoa hoè (sao) 12g, huyền sâm 10g, cam thảo đất 16g, đại táo 10g. Sắc uống ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần.

Bệnh zona: mướp đắng 20g, thổ linh 20g, cam thảo đất 16g, nam bạch chỉ 16g, kinh giới 12g, sài hồ 12g, thủ ô (chế) 10g, đương quy 12g, phòng sâm 12g, hoài sơn 12g, mã đề thảo 16g, bồ công anh 12g. Sắc uống ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần.

Trà dược trị tăng huyết áp: mướp đắng, hoa hoè, cam thảo đất, dừa cạn, rau má, lá đắng, mã đề, lá đinh lăng mỗi vị 100g (dược liệu ở dạng khô). Các vị sao giòn, tán vụn trộn đều, bảo quản trong bình kín tránh ẩm. Ngày dùng 35 – 40g, cho thuốc vào ấm, hãm nước sôi khoảng 15 phút là được. Uống dần trong ngày. Công dụng: thanh nhiệt, lợi tiểu, an thần, chống đau đầu, chao đảo, ổn định huyết áp, phòng ngừa tai biến.

Chữa đái tháo đường: mướp đắng 20 – 25g sắc nước uống hằng ngày.

Trị sỏi đường tiết niệu: mướp đắng dùng cả cây và lá, thái ngắn phơi khô, cất giữ cẩn thận, mỗi ngày lấy 1 nắm nấu nước uống, uống liên tục nhiều ngày. Tác dụng: bào mòn và tống sỏi ra ngoài. Đây là bài thuốc kinh nghiệm của đồng bào ở Ninh Thuận, Bình Thuận thấy có kết quả cao.

Trị gan nhiễm mỡ: mướp đắng 20g, ngũ gia bì 12g, nhân trần 12g, cây chó đẻ 6g, cam thảo đất 12g. Sắc uống ngày 1 thang, uống liên tục nhiều ngày. Công dụng: thanh can hoá ứ, trừ thấp, thông lạc…

Nhiệt kết ở đại trường gây táo bón, bụng đầy khó chịu: mướp đắng 20g, sinh địa 12g, hoàng cầm 10g, trần bì 10g, chỉ xác 10g, cam thảo 12g, đương quy 12g, đại táo 10g, mạch môn 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

Lương y Văn Trịnh

Meo.vn (Theo SKĐS)

Sa dạ dày và cách ăn uống

Bệnh xảy ra có thể do sự thay đổi khí hậu, lao động quá sức, ăn uống không điều độ.

Tính chất của cơn đau trong bệnh này tương tự như đau kiểu đói bụng; cũng có thể xuất hiện tình trạng trướng bụng, ợ hơi, đau thắt, các triệu chứng đi kèm là buồn nôn, nôn mửa, táo bón, khó tiêu. Khi nghiêm trọng có thể gây xuất huyết, nứt hậu môn. Người bị chứng sa dạ dày thường có những biểu hiện như: đau bụng ở vùng trên với những đặc điểm đau có tính nhịp điệu, mỗi lần phát bệnh có thể kéo dài trong vài ngày hay vài tuần...

Sinh hoạt, ăn uống

Những người bị sa dạ dày cần thường xuyên chú trọng điều dưỡng - điều chỉnh lại giờ giấc sinh hoạt, có thời gian nghỉ ngơi, làm việc thích hợp, đảm bảo ngủ đủ giấc. Nên dùng những loại thực phẩm ít xơ, mềm và dễ tiêu hóa. Tránh những thức ăn cứng, chiên xào và có tính kích thích như rượu, cà phê, trà, thực phẩm cay nồng. Nên ăn ít và chia thành nhiều bữa. Bệnh này có thể điều trị bằng ăn uống các loại trái cây hoặc thuốc Đông y như dưới đây:

Chuối tiêu - Cà rốt - Rau cần - Vị thuốc bạch truật / Ảnh: H.Mai

- Chuối trộn mật ong: Chuối tiêu 2 quả, táo tây 2 quả, mật ong 30 ml. Rửa sạch táo, chuối bỏ vỏ, xay nhuyễn, cho mật ong vào đảo đều, chia làm 2 lần dùng trong ngày.

- Nước củ sen, cam thảo: Củ sen 200g, cam thảo 3g, táo 2 quả, vị thuốc bạch thược 10g. Táo, củ sen rửa sạch, cắt nhỏ, ép thành nước, bạch thược và cam thảo cho vào nồi đất cùng 300 ml nước, nấu lấy nước. Trộn 2 loại nước với nhau khuấy đều để dùng, chia làm 2 lần dùng trong ngày.

- Cà rốt, rau cần: Cà rốt 400g, rau cần 200g, lá su hào 200g, táo 300g, mật ong 30 ml. Rửa sạch tất cả nguyên liệu, để ráo nước, cắt nhỏ, cho vào máy, ép lấy nước. Nếu quá đậm đặc có thể cho thêm nước vào, nếu chất xơ trong nước quá nhiều có thể vớt bỏ bớt, sau đó cho mật ong vào trộn đều là dùng được. Chia làm hai lần dùng trong ngày.

Ngoài ra, trong Đông y cũng có bài thuốc dùng cho bệnh sa dạ dày, đó là bài gồm các vị: hoàng kỳ, đảng sâm (cùng 16g), bạch truật, đương quy (cùng 10g), trần bì, thăng ma, cam thảo (cùng 6g), sài hồ 4g. Cách sắc (nấu) như sau: Nước đầu cho 3 chén nước sắc còn 1 chén, cho nước thuốc ra riêng; nước thứ 2 cho tiếp 3 chén, sắc còn nửa chén. Hòa hai nước lại, chia làm 3 lần trong ngày uống lúc no (sau khi ăn 30 phút). Một đợt uống liên tục 7-10 ngày.

Meo.vn (Theo TNO)

Bài thuốc hỗ trợ trị bệnh zona

Zona do virut gây ra, bệnh thường gây cảm giác đau rát ở vùng phát ban. Cảm giác đau thường xuất hiện trong vài ngày trước khi có tổn thương trên da. Biểu hiện vùng da sưng nề, mẩn đỏ. Trong một vài ngày, nơi sưng trở nên phồng rộp thường gặp ở lưng, ngực hoặc có thể mọc ở một bên mặt (tổn thương cùng bên).

Chúng tôi xin giới thiệu một số bài thuốc hỗ trợ điều trị bệnh zona tùy theo từng thể bệnh để bạn đọc tham khảo:

Thể can uất kết nhiệt

có triệu chứng da bị tổn thương có màu đỏ tươi, mụn nước nổi, nóng, đau châm chích, miệng đắng, họng khô, phiền bực dễ giận, đại tiện táo, tiểu vàng, rêu lưỡi vàng, mạch huyền hoạt sác. Phép trị: thanh nhiệt, lợi thấp, giải độc, giảm đau.

Bài thuốc: Long đởm thảo 12g, hoàng cầm 12g, chi tử 16g, trạch tả 12g, mộc thông 12g, đương quy 12g, sinh địa 16g, cam thảo 16g, huyền sâm 16g, mạch môn 16g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 3lần/ngày sau bữa ăn.

Thể tỳ thấp nhiệt có triệu chứng da bị tổn thương màu sắc nhạt, mụn nước nổi thưa, miệng khát, không thích uống nước, ngực bụng đầy trướng, ăn ít, tiêu lỏng, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng nhày, mạch nhu sác. Phép trị: kiện tỳ, trừ thấp, giải độc.

Bài thuốc: Thương truật 16g, hậu phác 16g, trần bì 12g, bạch truật 16g, bạch linh 16g, trạch tả 12g, trư linh 12g, cam thảo 6g, nhục quế 4g, sinh khương 12g, khương hoạt 12g, kim ngân hoa 12g, bồ công anh 12g, huyền hồ 8g, đại táo 5 quả. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 3 lần sau bữa ăn 1 giờ.


Đào nhân.

Thể huyết ứ

có triệu chứng sau khi mụn nước lặn, da bị tổn thương vẫn còn đau không dứt, kèm theo tâm phiền bực khó ngủ. Chất lưỡi tím đen, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch huyền tế. Phép trị: hoạt huyết, khứ ứ, hành khí, giải độc, giảm đau.

Bài thuốc: Đương quy 8g, sinh địa 18g, đào nhân 16g, hồng hoa 10g, xích thược 12g, sài hồ 6g, cam thảo 6g, cát cánh 8g, xuyên khung 6g, ngưu tất 18g. Sắc uống ngày 1 thang (cho 750ml nước đổ vào thang thuốc, sắc kỹ chắt lấy 250ml nước thuốc), chia uống 3 lần trong ngày sau bữa ăn 1 giờ.

Lưu ý: Trong dân gian không ít người nhầm lẫn giữa bệnh zona do virut gây ra với bệnh “giời leo” do côn trùng gây nhiễm khuẩn da có triệu chứng khá giống nhau và thường dùng lá đắp để điều trị dẫn tới hậu quả điều trị không kịp thời. Vì vậy, khi bị bệnh, nên đến khám tại cơ sở điều trị da liễu càng sớm càng tốt.        

Lương y: Vũ Quốc Trung

Meo.vn (Theo SKĐS)

Đông y trị chứng đau đầu

Bấm xem ảnh ở cửa sổ mớiY học hiện đại dùng chữ migraine để chỉ bệnh đau đầu thành cơn có chu kỳ, cơn đau thường xuất hiện ở một thời điểm nhất định, thường kèm theo nôn, sợ ánh sáng, đau giảm đi khi ở trong bóng tối và đi ngủ. Vùng đau không có liên hệ với vùng phân bố thần kinh mà liên quan với vùng phân bố mạch máu. Ngoài cơn đau bệnh nhân cảm thấy bình thường.

Hội chứng migraine thường gặp ở phụ nữ, cơn đau đầu tiên hay xảy ra ở tuổi dậy thì, có thể cơn đau chỉ xuất hiện vài năm, nhưng có khi kéo dài suốt đời. Các yếu tố có thể làm bệnh nhân nặng hơn là chấn thương sọ não, các chấn thương tinh thần, có các bệnh thuộc hệ động mạch cảnh ngoài.

Nguyên nhân đau đầu migraine chưa được giải thích rõ ràng, nhiều tác giả công nhận cơn đau xảy ra do sự giãn nở và gia tăng biên độ đập của các mạch máu, đau đầu migraine liên quan với sự giãn các mạch máu ngoại sọ và sự co các mạch máu trong sọ. Đau đầu migraine thường có tiền sử gia đình rõ rệt.

Theo y học cổ truyền, đầu là nơi hội tụ của các đường kinh dương, qua đó huyết tinh hoa của ngũ tạng, khí thanh dương của lục phủ đều hội tụ ở đầu. Bệnh đau đầu thuộc phạm trù 'đầu thống' của y học cổ truyền và được chia thành 2 loại là đau đầu do ngoại cảm và đau đầu do nội thương.

Ngoại cảm gây đau đầu thường do lục dâm tác động vào đầu, trong đó phong tà giữ vai trò chủ đạo và kết hợp với hàn, nhiệt, thấp. Hàn làm tắc kinh mạch, nhiệt làm náo loạn thanh không (khí huyết nghịch loạn), thấp che thanh khiếu, thanh dương, không thăng lên đầu được.

Nội thương gây đau đầu thường do khí hư, khí huyết trệ, huyết ứ làm mạch lạc không được nuôi dưỡng, hoặc thận thủy bất túc, can, dương thượng thăng, tình chí bất hòa, khí uất hóa hỏa làm thanh khiếu bị nhiễu loạn hoặc đờm ẩm thực tích.

Vị trí đau đầu có thể bên phải, đau bên trái, đau chính giữa đỉnh đầu hoặc đau mắt mờ tối, tim đau nóng phiền... Nếu đau nặng thì trong não đau nhói trong tim phiền loạn.

Cơ chế sinh bệnh của đau đầu là ngoại cảm hay nội thương đều làm cho mạch lạc mất điều hòa, khí huyết bị trở ngại.

Về điều trị tuy chỉ phát một chứng đau nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra nên phải căn cứ vào nguyên nhân và chứng trạng mà có cách điều trị khác nhau.

Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi đề cập đến một số thể đau đầu do nội thương gây ra:

Đau đầu do can dương vượng

Bấm xem ảnh ở cửa sổ mớiTriệu chứng: Đầu váng, căng, đau, tâm phiền dễ cáu, ngủ không yên (tâm hỏa nhiễu động) mặt đỏ, mồm khô, rêu lưỡi vàng mỏng, mạch huyền hoặc tế sác (âm hư) thường là huyết áp cao vừa. Nguyên nhân là do can âm kém, can dương thượng cang gây đau đầu.

Phép trị: Bình can tiềm dương.

Bài 1: Thiên ma 9g, câu đằng 12g, sơn chi 9g, phục thần 9g, hoàng cầm 9g, ngưu tất 12g, đỗ trọng 9g, ích

mẫu 9g, tang ký sinh 9g, dạ giao đằng 9g, thạch quyết minh. Sắc uống ngày một thang, uống liền 7 ngày.

Bài 2: Câu đằng 12g, quyết minh tử 16g, hạ khô thảo 16g, mạn kinh tử 12g, hương phụ 12g, chi tử 8g, cam thảo 6g. Sắc uống ngày một thang, uống trong 7 ngày.

Đau đầu do đờm trọc

Triệu chứng: Đầu đau căng, buồn nôn, nôn mửa đờm rãi, ngực bụng đầy tức, rêu lưỡi cáu trắng, mạch hoạt. Nguyên nhân là do đờm trọc thịnh, uất kết lại che mất đường lên của thanh dương gây nên.

Phép trị: Hóa đờm giáng nghịch.

Bài 1: Bạch chỉ 10g, hậu phác 16g, thổ phục linh 12g, bán hạ 12g, trần bì 12g, gừng sống 8g. Sắc uống ngày một thang, uống trong 7 ngày.

Bài 2: Bán hạ 10g, thiên ma 10g, phục linh 12g, bạch truật 12g, trần bì 8g, cam thảo 6g, gừng sống một lát, đại táo 2 quả. Sắc uống ngày một thang, uống trong 7 ngày.

Đau đầu do huyết ứ

Triệu chứng: Đau đầu lâu không khỏi, chỗ đau cố định không di chuyển, như dùi đâm hoặc có tiền sử ngoại thương phần đầu, lưỡi tím hoặc có ban ứ, rêu trắng mỏng, mạch tế sáp.

Phép trị: Hoạt huyết hóa ứ.

Bài thuốc: Xuyên khung 30g, cát căn 30g, diên hồ 30g, địa long 15g, ngưu tất 30g, tế tân 3g, bạch chỉ 9g. Sắc uống ngày một thang, uống trong 7 ngày.

Đau đầu do khí hư

Triệu chứng: Đau đầu âm ỉ liên miên, làm việc quá sức thì đau tăng, người mệt ăn kém, thiếu khí, mạch tế vô lực. Đó là do lao lực quá độ, hoặc sau khi ốm nặng, hoặc ăn uống thất thường gây nên khí huyết hư, không nuôi dưỡng được đầu.

Phép trị: Bổ khí.

Dùng bài thuốc sau: Hoàng kỳ 20g, cam thảo 6g, nhân sâm 10g, đương quy 16g, trần bì 6g, thăng ma 10g, sài hồ 10g, bạch truật 16g, tế tân 6g, xuyên khung 12g, mạn kinh tử 10g, bạch chỉ 12g. Sắc uống ngày một thang, uống trong 7 ngày.

(Sức khoẻ và Đời sống)

Ðông y chữa bệnh chàm

Trong bệnh chàm, thương tổn lúc đầu xuất hiện trên da màu đỏ hồng. Trên nền da đỏ, xuất hiện những mụn nước nhỏ li ti như rôm, mụn nước giập vỡ chảy nước vàng, sau vài ngày dịch khô thành một lớp vảy, vảy bong để lại lớp da đỏ hồng. Bệnh tái diễn thành từng đợt. Tại vùng tổn thương rất ngứa. Đông y chia bệnh thành hai thể: cấp tính và mạn tính. Tùy thể bệnh mà dùng bài thuốc thích hợp.

Điều trị chàm cấp tính

Thể thấp nhiệt: Da hồng đỏ, ngứa, nóng rát, có mụn nước, loét chảy nước vàng.

Bài 1: Nhân trần 20g; thổ phục linh, kim ngân, mỗi vị 16g; khổ sâm, hoàng bá nam, hạ khô thảo, ké đầu ngựa, mỗi vị 12g; hoạt thạch 8g. Sắc uống ngày một thang.

Bài 2: Sinh địa, kim ngân hoa, hoạt thạch, mỗi vị 2g; đạm trúc diệp 16g; hoàng cầm, hoàng bá, phục linh bì, khổ sâm, mỗi vị 12g. Sắc uống ngày một thang.

Bài 3: Nhân trần 20g, trạch tả 16g, hậu phác, phục linh, trư linh, mỗi vị 12g; trần bì 8g. Sắc uống ngày một thang.

Bài 4: Sinh địa, mã đề, mỗi vị 16g; ngưu bàng tử, hoàng liên, mộc thông, khổ sâm, hoàng bá, mỗi vị 12g; phục linh, thương truật, mỗi vị 8g; bạc hà 4g. Sắc uống ngày một thang.

Bài 5: Gỉ sắt 4mg, rượu 50ml. Tán gỉ sắt, ngâm rượu 2 ngày. Rửa sạch chỗ chàm bôi thuốc (kết quả tác dụng tốt đối với chàm trẻ em).

Thể phong nhiệt: Da hơi đỏ, có mụn nước, phát triển toàn thân, ngứa gãi chảy nước, ít loét.

Bài 1: Thạch cao 20g; sinh địa 16g; kinh giới, phòng phong, ngưu bàng tử, khổ sâm, mộc thông mỗi vị 12g; tri mẫu 8g; thuyền thoái 6g. Sắc uống ngày một thang.

Bài 2: Trạch tả, sinh địa, mỗi vị 12g; long đởm thảo, hoàng cầm, chi tử, mộc thông, mã đề, sài hồ mỗi vị 8g; thuyền thoái 6g; cam thảo 4g. Sắc uống ngày một thang.
Xác lột ve sầu cho vị thuốc thuyền thoái.

Điều trị chàm mạn tính

Biểu hiện: Da dày thô, khô, ngứa, nổi cục có mụn nước, hay gặp ở mặt, cổ chân, cổ tay, khuỷu tay, đầu gối.

Bài 1: Thuốc mỡ: hoàng liên, hồng hoa, hồng đơn chu sa, mỗi vị 4g. Tán bột, hòa với mỡ trăn, bôi vào chỗ chàm.

Bài 2: Thuốc rửa: lá vối tươi, lá kinh giới mỗi vị 100g. Đun sôi rửa vết loét, sau dùng thuốc mỡ nêu trên bôi.

Bài 3: Thục địa, sinh địa, kinh giới mỗi vị 16g; đương quy, bạch thược, thương truật, phòng phong mỗi vị 12g; khổ sâm, thuyền thoái, bạch tật lê mỗi vị 8g. Sắc uống ngày một thang.

Bài 4: Hoàng bá, hy thiêm, ké đầu ngựa, phù bình mỗi vị 12g; thương truật, phòng phong mỗi vị 8g. Sắc uống ngày một thang.

Bài 5: Hoàng liên 8g, bạch thược 4g, hoàng cầm 2g. Các vị trên được tán bột khô, sắc với nước rồi lọc và thêm vào nước sắc một lòng đỏ trứng, trộn kỹ, chia uống làm 3 lần mỗi ngày nước sắc ấm.

Chàm bìu: Có 2 thể, cấp và mạn tính

Bài thuốc: hoàng cầm, sinh địa, xa tiền tử, trạch tả, mộc thông, khổ sâm mỗi vị 12g; long đởm thảo, son chi mỗi vị 8g.

Bệnh cấp tính dùng dạng thuốc sắc, mỗi ngày sắc uống một thang. Bệnh mạn tính dùng dạng thuốc hoàn, các vị được tán bột, làm hoàn, mỗi ngày uống 20g.  

GS. Đoàn Thị Nhu
(suckhoe-doisong)

Trị chứng tai ù

Tai ù làm giảm thính giác, ảnh hưởng tới sinh hoạt hằng ngày, chữa trị không đơn giản. Đông y gọi chứng tai ù là “nhĩ minh” .


Những chứng trạng điển hình

Theo lương y Huyên Thảo (Hà Nội), chứng tai ù có thể do bệnh cục bộ ở tai nhưng chủ yếu thường do các bệnh toàn thân gây nên. Nhĩ minh có liên quan trực tiếp tới sự thịnh suy của âm dương khí huyết và có những chứng trạng điển hình  dễ nhận biết.

+ Thể Can hỏa thượng viêm với những biểu hiện: Khả năng nghe đột ngột giảm, tai ù khi nặng khi nhẹ, nhiều lúc cảm giác như có gió rít trong tai, bực bội thì tai ù nặng thêm, đau đầu, choáng váng, hoa mắt, mặt đỏ, họng khô, miệng đắng, tiểu tiện vàng sẻn, đại tiện táo kết, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch huyền sác.

+ Thể Thận tinh suy tổn với những biểu hiện: Tai như có tiếng ve kêu, về đêm to hơn gây khó ngủ, tai nghe kém dần. Chứng bệnh này hay gặp ở người già, người cơ thể suy nhược. Cùng với tai ù, bệnh nhân thấy lưng mỏi, gối yếu, mắt mờ, có thể bị di tinh, mạch tế nhược.

+ Thể Đàm trọc ung kết với những biểu hiện: Tai ù nhiều khi như bị nghẽn trong tai, bụng đầy trướng có khi nôn mửa, đầu choáng váng, miệng khô đắng, đại tiện khó khăn, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch hoạt sác.

Bài thuốc theo chứng trạng

+ Nếu ở thể Can hỏa thượng viêm dùng một trong những bài thuốc sau: Bài 1: Cúc hoa 30g, xa tiền thảo 30g, xương bồ 15g. Cho vào sắc dùng uống thay trà liên tục 7-8 ngày. Bài 2: Chỉ tử 9g, sài hồ 9g, thiên hoa phấn 18g, xa tiền thảo 30g. Sắc lấy nước. Cho thêm chút đường trắng, uống nhiều lần trong ngày, liên tục 7-8 ngày.

+ Nếu ở thể Thận tinh suy tổn dùng một trong những bài thuốc sau: Bài 1: Bầu dục lợn 2 quả, đậu đen 60g, đỗ trọng 15g, sinh khương 9g, xương bồ 10g. Hầm chín ăn trong ngày, ăn liên tục nhiều ngày. Bài 2: Thịt chó 250g, đậu đen 60g. Hầm kỹ, ăn hết trong ngày, chia 2 lần sáng và tối.

+ Nếu ở thể Đàm trọc ung kết dùng một trong những bài thuốc sau: Bài 1: Hạnh nhân 20g, trần bì 10g, sinh khương 10g. Sắc uống thay trà trong ngày; uống liên tục 7-8 ngày. Bài 2: Rau cần cả rễ 120g, gạo tẻ 250g, nấu cháo ăn nhiều bữa trong ngày, liên tục trong nhiều ngày.

Theo Thanh Niên