Lưu trữ cho từ khóa: phẫu thuật

Phẫu thuật cắt bỏ túi mật có nguy hiểm không?

Tôi năm nay 39 tuổi. Gần một tháng trở lại đây tôi hay đau ở hạ sườn. Đi khám thì biết mình bị sỏi mật và bác sĩ chỉ định phải cắt bỏ túi mật. Sỏi mật là gì? Nguyên nhân? Sau khi phẫu thuật cắt bỏ túi mật, có gì nguy hiểm không?

Trần Thị Hoa (Q.Bình Tân, TP.HCM)

phãu-thuạt-cat-bỏ-tui-mạt-co-nguy-hiem-khong

Cắt túi mật  không ảnh hưởng đến sức khỏe, tâm sinh lý người bệnh. Ảnh internet

ThS-BS Trịnh Đình Thắng

– Khoa Nội tiêu hóa, BV Nhân dân 115 trả lời:

Sỏi mật là một bệnh lý đường tiêu hóa gan mật do sự xuất hiện của sỏi trong hệ thống đường mật hoặc túi mật. Sỏi mật hình thành là do sự lắng đọng, dần dần kết tinh thành các khối cứng chắc trong hệ thống đường dẫn mật, có thể gây cản trở sự bài tiết mật xuống tá tràng.

Sỏi mật hình thành do thay đổi các cân bằng lý hóa của dịch mật trong sự sản xuất, vận chuyển, pha trộn các thành phần dịch mật như cholesterol cao, thiếu muối mật, axít mật, dư sắc tố mật, rối loạn cô đặc mật, tắc nghẽn đường dẫn mật, rối loạn hấp thu muối mật…

Ngoài ra, còn có các yếu tố nguy cơ tạo thành sỏi mật như béo phì, tăng cholesterol, phụ nữ lớn tuổi sinh đẻ nhiều, dùng thuốc ngừa thai, nhịn đói triền miên, giảm cân quá nhanh, người trên 60 tuổi, bệnh tiểu đường, bệnh lý gan mạn, xơ gan, nhiễm trùng…

Cắt bỏ túi mật không gây thiệt hại trầm trọng cho cơ thể, không ảnh hưởng đến sức khỏe, tâm sinh lý của người bệnh, tuy nhiên có thể gây ra một số rối loạn tiêu hóa và thường liên quan đến bệnh lý dạ dày tá tràng. Sau một thời gian, triệu chứng tiêu hóa sẽ trở về bình thường.

Theo Phunuonline.com.vn

Tránh mặt sát thủ bệnh mạch vành

Bệnh mạch vành được ví von là “sát thủ”, vì là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên thế giới.

Bệnh thường gặp ở người có tiền sử gia đình mắc bệnh mạch vành sớm, người hút thuốc lá, người mắc bệnh tăng huyết áp, rối loạn chuyển hoá mỡ, tiểu đường, người béo phì, ít hoạt động thể lực, hay bị stress… Bạn có thể tự mình xác định mức độ nguy cơ mắc bệnh để có phương thức phòng ngừa thích hợp sớm.


Tim bơm máu đi nuôi cơ thể, và chính nó cũng được nuôi dưỡng bởi hệ thống mạch máu gọi là mạch vành. Bệnh mạch vành là tình trạng lớp nội mạc của mạch vành bị tổn thương, thường là do những mảng xơ vữa gây hẹp lòng mạch máu.

Càng ngày, mảng xơ vữa hình thành nhiều hơn càng khiến tim không nhận đủ máu nuôi dưỡng (thiếu máu cơ tim) gây ra triệu chứng đau thắt ngực, khó thở…

Nếu một hoặc nhiều nhánh mạch vành bị tắc hoàn toàn (do mảng xơ vữa bị nứt, vỡ, loét hoặc do hình thành cục máu đông) sẽ gây ra nhồi máu cơ tim, có thể đưa tới choáng tim, suy tim, rối loạn nhịp tim, tử vong…

Tự kiểm tra phát hiện bệnh

Trả lời những câu hỏi sau, bạn có thể biết mình có nguy cơ mắc bệnh mạch vành hay không: bạn có hút thuốc lá? Bạn có thừa cân? (tự xác định nhờ chỉ số BMI: cân nặng (kg)/chiều cao (m)2, BMI ³ 25 là bạn thừa cân). Huyết áp của bạn (có thể tự xác định bằng máy đo huyết áp điện tử). Bạn có bệnh tiểu đường (đã khám và được chẩn đoán)? Lượng cholesterol toàn phần, HDL cholesterol trong máu (làm xét nghiệm máu)? Tiền căn bệnh mạch vành của người thân trong gia đình?

Bạn nằm trong nhóm nguy cơ thấp nếu có tất cả các yếu tố sau: không hút thuốc lá; không thừa cân; huyết áp tâm thu < 120mmHg, huyết áp tâm trương < 80mmHg; không có bệnh tiểu đường; cholesterol toàn phần < 200mg/dL, HDL cholesterol > 40mg/dL; gia đình không có ai mắc bệnh mạch vành sớm (trước 55 tuổi).

Người trong nhóm nguy cơ thấp cần tiếp tục duy trì lối sống điều độ, lành mạnh, không cần can thiệp gì thêm. Bạn có nguy cơ cao nếu có một trong các yếu tố sau: đã được xác định có bệnh lý mạch máu; có bệnh tiểu đường týp 2; trên 65 tuổi và có ít nhất hai yếu tố nguy cơ nêu trên. Nếu không ở trong hai nhóm nguy cơ vừa kể, nguy cơ mắc bệnh mạch vành của bạn ở mức trung bình.

Điều trị: Phải tuỳ trường hợp cụ thể

Nếu bạn ở trong nhóm nguy cơ cao thì cần nhờ bác sĩ tim mạch kiểm tra, được tư vấn giúp giảm nguy cơ mắc bệnh bằng chế độ sinh hoạt, lối sống phù hợp, điều trị bằng thuốc nếu cần. Nếu ở trong nhóm nguy cơ trung bình, bạn cần nhờ bác sĩ tư vấn thay đổi lối sống.

Ngoài ra, có thể làm các xét nghiệm không xâm lấn (điện tâm đồ gắng sức, siêu âm tim gắng sức, chụp phim CT đa lớp cắt dựng hình mạch vành…)

Điều trị bệnh mạch vành phức tạp và tuỳ thuộc từng trường hợp cụ thể, từ nhẹ tới nặng mà có phương pháp từ đơn giản đến phức tạp, như điều chỉnh lối sống, dùng thuốc, can thiệp động mạch vành qua da (nong bằng bóng, đặt giá đỡ), phẫu thuật bắc cầu mạch vành.

Người bệnh mạch vành cần khám bệnh định kỳ để theo dõi và có phương thức điều trị kịp thời. Nếu có điều trị thuốc, cần tuân thủ chế độ điều trị của bác sĩ.

Lối sống cho người bệnh mạch vành

Lối sống lành mạnh giúp ngăn chặn và làm chậm diễn tiến của bệnh mạch vành. Những biện pháp cần áp dụng trong sinh hoạt hàng ngày: tuyệt đối không hút thuốc lá; theo dõi và kiểm soát huyết áp; kiểm tra mức mỡ trong máu thường xuyên và giữ cholesterol máu không cao.

Nếu mắc bệnh tiểu đường thì cần điều trị và kiểm soát tốt mức đường huyết. Thường xuyên vận động và tập thể dục ở mức vừa sức (đi bộ ngắn, tập thái cực quyền…), tuy nhiên, cần tránh các hoạt động gắng sức nhiều, đột ngột (đi bộ nhanh, leo cầu thang…)

Có chế độ ăn uống hợp lý, đủ dinh dưỡng, giàu vitamin. Kiêng các loại thực phẩm chứa nhiều mỡ (nội tạng động vật, tim, gan, thịt mỡ, bơ, lòng đỏ trứng, da gà, trứng cá…); ăn các loại rau tươi, hoa quả, các loại đậu và chế phẩm từ đậu nành, thịt nạc, cá, tôm…; hạn chế dùng trà đặc, càphê; ít ăn mặn; không uống rượu, bia… Tránh để thừa cân. Sống vui khoẻ, điều độ, có giờ giấc nghỉ ngơi, tránh để bị stress.

Trong sinh hoạt, nếu gặp tình trạng khó thở, đau ngực nhiều, cần nằm yên tại chỗ ở tư thế nửa nằm nửa ngồi, tránh di chuyển, cố gắng giữ bình tĩnh, ngậm viên Risordan 5mg dưới lưỡi. Nếu triệu chứng không giảm hoặc trở nên nặng hơn, cần tới bệnh viện ngay.

Theo BS. CK1 Ngô Bảo Khoa

Meo.vn (Theo Saigontiepthi)

Điều trị ung thư bằng cấy hạt phóng xạ

Cấy hạt phóng xạ vào vị trí ung thư, những tia xạ liên tục phát huy tác dụng giúp tiêu diệt hiệu quả các tế bào ung thư. Cấy hạt phóng xạ vào vị trí ung thư, những tia xạ liên tục phát huy tác dụng giúp tiêu diệt hiệu quả các tế bào ung thư. Đây là tin vui cho những bệnh nhân đã thất bại trong việc xạ trị, hóa trị.

Thông qua hệ thống máy tính TPS dò xét kỹ lưỡng, các chuyên gia điều trị sẽ dùng thủ thuật đưa những hạt phóng xạ cấy thẳng vào khối u cũng như một số tổ chức đang bị tế bào ung thư xâm lấn. Hạt phóng xạ liên tục phát ra các tia γ làm cho tế bào tổ chức của khối u bị phá hủy tại chỗ, nhưng lại không ảnh hưởng nhiều tới những tổ chức tế bào bình thường khác.

Kỹ thuật này cho kết quả tốt ở chỗ khối u bị teo đi nhanh, giúp tiêu diệt tế bào ung thư nhưng lại không làm tổn thương nhiều đến sức khỏe, đây là một trong những kỹ thuật điều trị khối u tiên tiến đang được nhiều nước áp dụng.


Phương pháp mới

Một bệnh nhân sống ở Thụy Điển, một năm trước ông chụp CT chẩn đoán có khối u xung quanh phổi trái, tuy là ung thư phổi thời kỳ đầu, nhưng vì tuổi đã cao, phổi lại sưng to, chức năng phổi suy nhược không thể phẫu thuật được. Ông về Trung Quốc thăm người thân và được giới thiệu đến tham khảo ý kiến các chuyên gia.

Tại đây, thông qua kỹ thuật CT tạo dựng khối u thành hình ảnh 3 chiều, đồng thời thông qua sự hợp tác của các chuyên gia xạ trị; thâm nhập cục bộ và chuyên gia về hình ảnh học cùng hội chuẩn thảo luận xác định vị trí chính xác của khối u, đưa ra khu vực tiến hành điều trị, xác định vị trí và số lượng hạt phóng xạ cần cấy vào, sau đó mới đề nghị phương pháp cấy hạt phóng xạ vào trong khối u để điều trị. Ông đồng ý điều trị tại chỗ vì về nước.

Sau khi phẫu thuật, những triệu chứng như ho, khó thở được cải thiện rõ rệt. Một tháng sau khi điều trị, chụp CT kiểm tra thì thấy khối u 3 cm được cấy hạt phóng xạ đã teo đi.

Phương pháp điều trị cấy hạt phóng xạ là trực tiếp đưa những hạt phóng xạ vào trong khối u, liều lượng bức xạ cao, không chịu ảnh hưởng từ các vận động, mà phạm vi phóng xạ chỉ với 1.7 cm, giảm thiểu sự tổn hại đối với các tế bào tổ chức bình thường khác, đồng thời không làm giảm bạch cầu, rụng tóc và tác dụng phụ khác.

Ít xảy ra tình trạng giảm bạch cầu

Được biết đến nay đã có hàng trăm ca điều trị được thực hiện và ít thấy phản hồi về tình trạng giảm bạch cầu. Ngoài ra, trong quá trình cấy hạt phóng xạ, những tia xạ liên tục phát huy tác dụng tiêu diệt các tế bào ung thư, thông thường thì khoảng 10 ngày là thấy hiệu quả, nhưng đối với một số tế bào ung thư nhạy cảm, khi cấy hạt phóng xạ thì gần như ngay lập tức thấy tác động hiệu quả.

Điều trị những bệnh nhân ung thư sau khi đã thất bại với xạ, hóa trị là một trở ngại đối với các chuyên gia, nhưng với phương pháp cấy hạt phóng xạ - là một thanh kiếm sắc nhọn giúp các chuyên gia tiếp tục chiến đấu vì người bệnh.

Khi tiến hành phương pháp này có thể làm giảm đi những tổn thương gây ra cho người bệnh, làm tăng lượng phóng xạ ở bên trong khối u, trong vòng 24 giờ, các hạt phóng xạ này không ngừng phát ra các tia xạ từ trong ra ngoài, khiến cho các tế bào ung thư bị khống chế, hầu như toàn bộ ổ bệnh đều đạt được hiệu quả điều trị cao. Đây là tin vui cho những bệnh nhân đã thất bại trong việc xạ trị, hóa trị.

Meo.vn (Theo Thanhnien)

Ăn nhiều không lo tăng cân

Với phương pháp giảm béo bằng bấm huyệt lưu thông khí huyết có nguồn gốc từ nền Đông y Trung Quốc, bạn không cần phải ăn kiêng, uống thuốc giảm cân hay phẫu thuật thẩm mỹ mà vẫn có được những số đo lý tưởng.

Với phương pháp này, thông thường sau 7 ngày trị liệu liên tục, cơ thể của bạn sẽ giảm từ 4 đến 5 kg trong lượng và số đo các vùng tích mỡ là 10-15 cm vùng bụng, 3-6 cm vùng đùi, bắp chân, bắp tay…

Các bác sĩ Đông y sử dụng những thao tác bấm huyệt ở vùng bụng nhằm thu nhỏ dạ dày, khiến bạn dễ dàng hạn chế khẩu phần ăn của mình, hình thành một thói quen ăn uống khoa học, do vậy nguy cơ béo lại sẽ rất thấp. Đây cũng là ưu điểm vượt trội của giảm béo Đông y.


Trước khi tiến hành trị liệu ngoài việc được thải độc ruột bạn sẽ được các chuyên viên massage vùng bụng của người điều trị bằng tinh dầu giảm béo được tổng hợp từ 20 loại thảo dược quý hiếm trong thiên nhiên, làm cơ thể nóng lên, vừa trị liệu các vùng đau nhức mỏi( lưng, gáy, bả vai) lại vừa thẩm thấu vào da làm mềm, hóa lỏng các tế bào mỡ. Mỡ thừa này sẽ dần đào thải một cách tự nhiên qua đường nước tiểu, tuyến mồ hôi và nước bọt.

Bình thường khi cơ thể bị tập trung quá nhiều độc tố sẽ cản trở quá trình tuần hoàn máu và lưu thông khí trong cơ thể, khiến việc giảm cân trở nên khó khăn. Nếu được bấm huyệt giúp đả thông các huyệt đạo, chất độc vừa được đào thải ra ngoài vừa khiến da hồng hào, mịn màng lại vừa hỗ trợ hiệu quả cho quá trình giảm cân.

Bước cuối cùng bạn sẽ được cuốn gel lạnh kích thích sự tái tạo collagen và elastin khiến vùng da chạy xệ được chăn sắc và mịn màng.

Meo.vn (Theo Ngoisao)

Ai dễ bị ung thư dạ dày?

Nhiều trường hợp bệnh nhân có triệu chứng rối loạn tiêu hoá đến khám điều trị ở các phòng mạch tư, phòng khám đa khoa trong một thời gian dài mà không được chụp hoặc soi dạ dày. Đến khi phát hiện ung thư dạ dày thì đã quá muộn không còn cách cứu vãn.

Nam giới mắc bệnh cao gấp ba lần nữ giới

Ung thư dạ dày là loại ung thư xuất phát từ thành dạ dày. Đa số trường hợp là loại ung thư biểu mô tuyến của niêm mạc dạ dày và một số ít trường hợp thuộc loại u ác lympho, u ác cơ trơn. Ung thư dạ dày thường gặp nhất ở đường tiêu hoá và đứng hàng thứ ba trong các loại ung thư ở nam giới.

Nam giới bị bệnh này nhiều hơn nữ giới gấp ba lần. Hiện chưa có lời giải đáp vì sao có chênh lệch này. Tuổi mắc bệnh thường sau 50, nhưng thực tế gần đây cho thấy khá nhiều trường hợp xảy ra ở người trẻ hơn. Tỷ lệ mắc bệnh ở khu vực Hà Nội cao hơn TP.HCM. Trên thế giới, Nhật là nước có tỷ lệ bệnh này rất cao (69 ca/100.000 dân mỗi năm) nhưng người Nhật phát hiện bệnh rất sớm nhờ nội soi tầm soát nên khả năng điều trị khỏi bệnh rất tốt. Tỷ lệ mắc bệnh ở nước ta là 20 – 45 ca/100.000 dân mỗi năm, nhưng thường là phát hiện trễ nên khả năng điều trị khỏi bệnh thấp.

Thủ phạm gây ung thư dạ dày

Nhiễm khuẩn Helicobacter pylori được cho là nguyên nhân chính của bệnh ung thư dạ dày, mặc dù vẫn còn nhiều điều chưa sáng tỏ trong mối liên hệ nhân quả này. Không nên vội hoảng hốt khi bị nhiễm Helicobacter pylori, bởi ung thư dạ dày chỉ phát sinh trong khoảng 2% số người bị nhiễm và phải qua nhiều giai đoạn viêm nhiễm ở dạ dày nhưng không được điều trị trong thời gian dài. Ngoài ra, người ta còn nghi ngờ nhiều yếu tố nguy cơ khác như người có nhóm máu A, yếu tố di truyền, viêm dạ dày thể teo, ăn nhiều muối, thức ăn xào – rán – nướng – chả – hun khói…

Ở giai đoạn sớm, người bệnh có thể không có biểu hiện gì hoặc có những triệu chứng không đặc hiệu về tiêu hoá như: chậm tiêu, đầy bụng, ợ hơi, đau không rõ ràng vùng trên rốn, chán ăn… Khám bụng không thể phát hiện bất thường. Ở giai đoạn này, chỉ có nội soi dạ dày và sinh thiết qua nội soi là phương tiện hữu hiệu nhất để xác định bệnh. Ở giai đoạn tiến triển, người bệnh cảm thấy đau âm ỉ vùng trên rốn, chán ăn, rất khó tiêu, sụt cân, mệt mỏi, chóng mặt, xanh xao, có khi tiêu phân đen. Khám bụng có thể sờ thấy khối u vùng trên rốn, có thể không. Nội soi dạ dày hoặc chụp X-quang dạ dày dễ dàng phát hiện khối u. Ở giai đoạn muộn, bệnh nhân suy kiệt, thiếu máu nặng, phù. Đau vùng trên rốn trở nên dai dẳng, nôn ói, nôn ra máu. Khám có thể sờ rõ khối u trên rốn, bụng báng, u di căn lổn nhổn ở bụng. Bệnh ở giai đoạn này thì không còn phương cứu chữa.

Phát hiện sớm, chữa khỏi có thể đạt 100%

Để phát hiện sớm ung thư dạ dày

Phải tầm soát bằng chụp X-quang dạ dày hoặc nội soi dạ dày thì mới có thể phát hiện được ung thư dạ dày giai đoạn sớm. Nội soi phát hiện thương tổn sớm tốt hơn X-quang. Hiện ngành y tế vẫn chưa đáp ứng được việc tầm soát với tất cả mọi người dân, kể cả ở các nước phát triển. Người có yếu tố nguy cơ là đối tượng cần phải tầm soát như: bị viêm teo dạ dày hoặc thiếu máu ác tính, đã cắt bán phần dạ dày, polyp dạ dày, trong gia đình có người bị ung thư đường tiêu hoá, có triệu chứng rối loạn tiêu hoá thường xuyên. Nếu có điều kiện thì mọi người trên 50 tuổi nên nội soi dạ dày tầm soát trong đợt kiểm tra sức khoẻ định kỳ.

Phương pháp điều trị ung thư dạ dày là phẫu thuật cắt bỏ và kết hợp hoá trị sau mổ. Tuỳ giai đoạn bệnh, phẫu thuật có thể tiến hành qua nội soi đường miệng, nội soi ổ bụng hoặc phẫu thuật mở bụng. Ở giai đoạn sớm, ung thư chỉ khu trú ở lớp niêm mạc, có thể cắt bỏ một diện niêm mạc chứa thương tổn qua nội soi đường miệng mà không phải cắt một phần dạ dày. Ở giai đoạn ung thư đã xâm nhập các lớp của thành dạ dày, phẫu thuật thích hợp là cắt bán phần hoặc toàn bộ dạ dày (tuỳ vị trí ung thư ở phần dưới hay phần trên dạ dày) kèm theo là nạo vét các hạch xung quanh dạ dày. Phẫu thuật này có thể thực hiện qua nội soi ổ bụng hoặc mổ mở, tuỳ khả năng trang bị và trình độ kỹ thuật. Ở giai đoạn muộn hơn, ung thư đã ăn lan qua các bộ phận khác, không thể cắt bỏ, phẫu thuật chỉ giải quyết tạm bợ bằng cách nối vị tràng hoặc thậm chí chỉ đặt ống vào ruột non để nuôi ăn. Sau mổ, đối với các trường hợp có di căn hạch hoặc ung thư xâm lấn qua thành dạ dày, cần sử dụng hoá trị hỗ trợ. Có nhiều loại thuốc hoá trị sử dụng đơn độc hoặc phối hợp do các chuyên gia hoá trị chỉ định, dựa vào đặc điểm và giai đoạn của ung thư. Xạ trị hỗ trợ cũng có thể được chỉ định cho trường hợp khối u đã xâm lấn và di căn hạch.

Tỷ̉ lệ chữa khỏi ung thư dạ dày có thể đạt 100% nếu phát hiện ở giai đoạn 0 (ung thư chỉ khu trú ở lớp niêm mạc). Đối với ung thư giai đoạn 1 (chưa di căn hạch, chưa qua hết thành dạ dày), tỷ lệ này đạt trên 80%. Ở các giai đoạn tiến triển hơn, tỷ lệ này sẽ giảm nhiều. Một điểm cần lưu ý, bác sĩ cho dù có nhiều kinh nghiệm cũng không thể khám xác định bệnh dạ dày chỉ bằng lâm sàng, mà phải dùng X-quang hoặc nội soi mới có thể định bệnh và điều trị thích hợp. Vì vậy, lời khuyên cho người bệnh có biểu hiện về tiêu hoá là cần phải được nội soi dạ dày trước khi điều trị.

TS.BS Đặng Tâm,
trưởng khoa ngoại tổng quát,
bệnh viện Triều An, TP.HCM

U nang buồng trứng: Dễ gặp và có thể vô sinh

U nang buồng trứng là bệnh hay gặp của phụ nữ. Có thể đây chỉ là khối u cơ năng hoặc là khối ung thư ảnh hưởng mạng sống và duy trì chức năng sinh đẻ của người phụ nữ.

Tôi kết hôn được 2 năm, cả hai vợ chồng tôi đang rất mong có em bé. Vừa qua tôi đi khám và được chẩn đoán u nang buồng trứng ở cả hai bên buồng trứng. Tôi không biết có phải do việc tôi bị u trong buồng trứng nên khả năng thụ thai của tôi giảm đi hay không?

Trả lời:

U nang buồng trứng là tình trạng bất thường của một hoặc cả hai bên buồng trứng. Đây là hiện tượng phổ biến và thường gặp ở những chị em phụ nữ ở tuổi dậy thì và mãn kinh.

U nang buồng trứng là một bệnh hay gặp của phụ nữ. Có thể đây chỉ là khối u cơ năng do hoạt động nội tiết của cơ thể hoặc cũng có thể đây là khối ung thư cần được phát hiện sớm và xử trí kịp thời nhằm bảo toàn mạng sống và duy trì chức năng sinh đẻ cho người phụ nữ.

U nang buồng trứng không phải là bệnh gây ra bởi bất cứ căn bệnh tiềm ẩn hoặc rối loạn nào trong cơ thể. Nó có thể tự co lại và biến mất trong khoảng vài tuần. Tuy nhiên, có một số u nang buồng trứng không có triệu chứng bệnh và khó phát hiện khi chị em đi khám. Ngoài ra, các triệu chứng thường gặp của bệnh u nang buồng trứng này thường bao gồm:

- Thay đổi chu kinh nguyệt, bao gồm cả thời gian ngắn hoặc dài hơn, không thấy kinh hoặc xuất hiện ít máu giữa chu kì.
- Đau nhức vùng chậu, đặc biệt là trong quan hệ tình dục hoặc lúc bắt đầu hay lúc kết thúc kinh nguyệt.
- Cảm giác buồn nôn
- Đau tức ngực

Các triệu chứng này cũng có thể là dấu hiệu của những vấn đề khác nghiêm trọng hơn liên quan đến sức khỏe. Vậy nên, khi thấy bất kỳ thay đổi nào về kinh nguyệt hay đau bụng kéo dài, chị em cần phải đi khám để được chẩn đoán bệnh chính xác nhất.

U nang buồng trứng còn có thể chuyển sang các dạng đặc biệt như: Nang lạc tuyến buồng trứng (lạc nội mạc tử cung), u bì buồng trứng, và ung thư buồng trứng

U nang buồng trứng có thể có liên quan đến vấn đề thụ thai của các cặp vợ chồng. Những dạng đặc biệt của u nang thậm chí còn có thể nguy hiểm đến tính mạng của chị em. Trong trường hợp bạn phải phẫu thuật để loại bỏ u thì bạn nên nói kế hoạch mang thai của mình với bác sĩ phẫu thuật, vì bác sĩ phẫu thuật là người hiểu chính xác nhất những gì cần phải làm và những gì sẽ tác động đến khả năng sinh sản của bạn. Một người phụ nữ có thể mang thai với buồng trứng duy nhất, hoặc ngay cả với một phần của buồng trứng.

Việc khám phụ khoa định kỳ sẽ giúp phát hiện sớm bệnh. Khi phát hiện u nang buồng trứng, nên được điều trị sớm để tránh trường hợp bỏ sót ung thư buồng trứng – một trong những nguy cơ gây tử vong cao cho người phụ nữ.

theo afamily

Trong thời gian cho con bú nên tránh thai như thế nào?

(Dân trí) - Nhiều người cho rằng, cho con bú có thể ức chế sự rụng trứng, có tác dụng tránh thai. Trên thực tế, sau khi sinh một tháng cho đến kỳ hành kinh, khả năng người mẹ có thai lại tăng lên.

Bấm xem ảnh ở cửa sổ mới

Tại nhiều bệnh viện, có những chị em cho con bú được 4 tháng đã có thai hai tháng, đành phải đi nạo thai.

Thường thì sau khi sinh nở được 3 tháng, vợ chồng bắt đầu khôi phục sinh hoạt chăn gối là thích hợp nhất. Trong thời gian cho con bú, khi quan hệ tình dục nên áp dụng biện pháp tránh thai.

Những chị em trong khi cho con bú có thể lựa chọn nhiều cách tránh thai, với nguyên tắc là không ảnh hưởng đến sữa và sự sinh trưởng của bé:

Bao cao su là biện pháp tránh thai an toàn và phổ biến nhất hiện nay. Tuy nhiên, nhiều ông chồng cảm thấy bất tiện và vướng víu nên không thích dùng. Hơn nữa, sau khi sinh, âm đạo người phụ nữ dễ bị tổn thương, có thể dị ứng với một số loại bao cao su. Ưu điểm lớn nhất của biện pháp này là hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến quá trình nuôi con bằng sữa mẹ.

Đặt vòng tránh thai trong tử cung là biện pháp tránh thai an toàn, đơn giản, rẻ tiền và linh hoạt. Ở Trung Quốc, có khoảng 40% chị em ở độ tuổi sinh nở sử dụng biện pháp này. Do trong thời gian cho con bú, tử cung nhỏ hơn đôi chút so với bình thường, vì vậy, tốt nhất là sau khi cai sữa mới đặt vòng, để tránh vòng bị nhỏ.

Hiện nay, ngoài vòng tránh thai đơn bằng kim loại, vòng đồng hình chữ V còn có loại vòng có thể nhả hoóc môn tránh thai, nhả thuốc cầm máu. Loại vòng này không những tăng cường hiệu quả tránh thai, mà còn tránh ra máu và đỡ đau rất rõ rệt. Tác dụng đặt vòng tránh thai có thể duy trì trong 5-10 năm.

Hiệu quả của loại hoóc môn tránh thai tương đối tốt, vừa không ảnh hưởng sữa, lại không ảnh hưởng đến việc sinh trưởng của trẻ, nhưng do có hoóc môn, vì vậy, có một số chị em sẽ xuất hiện hành kinh không đều, hành kinh bị dây, hành kinh kéo dài hoặc trong thời gian dài không có hành kinh.

Thuốc uống tránh thai an toàn, đáng tin cậy, chủ yếu có tác dụng ngăn chặn quá trình phôi thai, như thay đổi tính chất chất nhờn trong cổ tử cung, ngăn ngừa tinh trùng ngấm vào, thay đổi đặc tính của màng tử cung...

Thắt ống dẫn trứng và thắt ống dẫn tinh trùng là biện pháp tránh thai lâu dài. Thông qua một phẫu thuật nhỏ thắt ống dẫn trứng hoặc thắt ống dẫn tinh trùng để ngăn chặn không cho tình trùng đi qua, hoặc khiến cho noãn không thể thông qua ống dẫn trứng để gặp tinh trùng.

Biện pháp này không ảnh hưởng đến sinh lý của cả hai vợ chồng, nhưng không thích hợp với những người mắc bệnh về chức năng thần kinh nghiêm trọng, bệnh về giới hoặc những chị em cho con bú bị viêm bộ phận sinh dục.

Nên nhớ là, những chị em cho con bú không thích hợp dùng những loại thuốc uống tránh thai có chất hoóc môn nữ tính, bởi vì uống hoóc môn nữ tính sẽ ảnh hưởng đến đường tiêu hóa, ăn uống không ngon miệng, khiến cho hàm lượng protit, chất mỡ và nguyên tố vi lượng trong sữa giảm xuống, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự sinh trưởng của trẻ. Đồng thời, trẻ ăn sữa có chất hoóc môn nữ tính khiến đặc trưng giới tính phụ không bình thường, như: bé trai bộ ngực phát triển, bé gái thì biểu mô âm đạo bị tấy lên, cửa mình dầy lên…

Ngoài ra, những chị em trong thời gian cho con bú nếu như uống 3-6 tuần thuốc có hoóc môn nữ tính sữa sẽ ít đi một nửa, rất không có lợi cho cháu ăn sữa mẹ.

Mai Lan

Theo CRI

Bệnh rò hậu môn?

Tôi bị một cái mụn nhọt gần hậu môn, đã mấy năm rồi. Mụn nhọt này thỉnh thoảng có mủ, đau, khi vỡ ra có mủ màu vàng, nhưng sau đó lại hết. Chừng vài tháng sau lại bị như vậy. Tôi sờ bên ngoài thấy nó tạo thành một đường có thành cứng. Vậy cho hỏi tôi có thể đi khám ở bệnh viện chuyên khoa nào?

(nguyenvantrung…@)

- Trường hợp của bạn có thể chẩn đoán là bạn đang bị bệnh rò hậu môn hay dân gian còn gọi là mạch lươn. Đây là một bệnh xảy ra ở hậu môn trực tràng, tỉ lệ thường gặp đứng thứ hai, chỉ sau bệnh trĩ. Bệnh tuy không gây chết người nhưng lại gây nhiều phiền toái, khó chịu trong cuộc sống.

Rò hậu môn thường xảy ra sau một thời gian bị áp xe quanh hậu môn, rồi tự tạo thành một lỗ nhỏ đóng mày, chảy mủ hoặc dịch màu vàng hôi, tái phát nhiều lần, thỉnh thoảng có cảm giác đau ngứa.

Rò hậu môn có thể được chia thành hai loại:

- Rò đơn giản: chỉ có một lỗ trong thông ra với lỗ ngoài bằng một  đường rò.

- Rò phức tạp: đường rò có nhiều ngóc ngách.

Nguyên nhân thường gặp là do nhiễm vi khuẩn như E.Coli, tụ cầu vàng, liên cầu, vi trùng lao…

Điều trị:

- Sử dụng kháng sinh thích hợp và giữ vùng da hậu môn sạch sẽ.

- Chỉ có một phương pháp điều trị hiệu quả nhất đối với lỗ rò là phẫu thuật. Tùy theo tính chất của lỗ rò mà kết quả phẫu thuật khác nhau. Có nhiều trường hợp phải mổ đi mổ lại nhiều lần.

Để tránh trường hợp diễn tiến nặng và khó chữa trị hơn, bạn nên đi khám bệnh càng sớm càng tốt. Bạn nên đến khám tại bệnh viện có khoa tiêu hóa hoặc phòng khám có khoa chuyên về bệnh hậu môn.

Bác sĩ HUỲNH HUY HOÀNG

Thắp sáng hệ thần kinh

Từ lâu, các nhà ngoại khoa đã tìm cách phân biệt và đề ra nhiều nguyên tắc để tránh xâm phạm vào hệ thống thần kinh khi phẫu thuật. Khát vọng làm thần kinh phát sáng phẫu thuật viên có thể phân biệt và tránh những tổn thương do phẫu thuật đã được hiện thực hóa.

Nguy cơ cắt phải thần kinh

Trong cơ thể chúng ta, hầu như mọi chỗ, mọi ngóc ngách đều có tế bào thần kinh cùng các nhánh của nó. Các tế bào thần kinh ở đây đóng vai trò vô cùng quan trọng. Chúng chính là những bộ phận cảm giác rất tinh tế, và có vai trò quyết định trong việc điều khiển vận động. Không chỉ có vậy, các tế bào thần kinh còn đóng vai trò dinh dưỡng. Một cánh tay mà bị đứt thần kinh thì có thể bị teo yếu vì không được nuôi dưỡng đầy đủ. Vì thế, mà trong mọi trường hợp, chúng ta đều phải cố gắng giữ lại thần kinh hay ít nhất là không được xâm hại đến nó. Ngành phẫu thuật trong y học cũng không nằm ngoài quy tắc này.

Một nhiệm vụ đặt ra cho các phẫu thuật viên là phải cắt bỏ cái gì cần cắt bỏ, giữ lại cái gì cần giữ lại, tuyệt đối không được động chạm đến mạch máu và thần kinh. Trên lý thuyết, việc phân biệt và tránh những dây thần kinh có nhiều điểm và dấu hiệu thực hành. Nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng làm được điều này. Vì hình dạng giống nhau đến kinh ngạc giữa một dây thần kinh, một mạch máu, nhất là tĩnh mạch và một gân hay một dây chằng. Chúng đều là những sợi chắc, trắng và đều là những mô sống. Bình thường chúng đã khó phân biệt, trong trường hợp đang phẫu thuật, có chảy máu thì việc phân biệt còn khó khăn hơn. Chẳng khác nào mò kim trong bóng tối.

Việc tìm và thấy được thần kinh chi phối quả thực vô cùng quan trọng. Nếu một phẫu thuật viên mà không cẩn trọng, có thể cắt luôn vào dây thần kinh vận động hai chi dưới khi phẫu thuật cột sống. Nếu không đủ bản lĩnh ngoại khoa, có thể người can thiệp sẽ gây tổn thương cho cả dây thần kinh cảm giác tay khi phẫu thuật gãy xương. Tệ hại hơn, chúng ta có thể cắt nhầm cả dây thần kinh phế vị khi phẫu thuật tuyến giáp. Kết quả người bệnh sẽ trở thành người câm vĩnh viễn.

Xuất phát từ thực tế đó, các nhà ngoại khoa đã tìm nhiều cách và đề ra nhiều nguyên tắc để tránh xâm phạm vào những bộ phân nhạy cảm này. Lúc thì dựa vào hình dạng, lúc thì dựa vào cảm giác đau, lúc thì dựa vào nhịp đập. Tuy thế, nhiều khi sai sót vẫn là chuyện thường ngày ở huyện. Một ước mơ mà nhiều thế hệ phẫu thuật viên khát vọng, đó là làm thế nào đó mà các bộ phận thần kinh phát sáng thì chúng ta sẽ dễ dàng nhìn thấy chúng một cách chính xác. Và các nhà khoa học đã “phù phép” cho ước mơ đó thành hiện thực.

Kỹ thuật mới giúp hiện hình dây thần kinh cùng các nhánh phân bố.

Phát sáng thần kinh như thế nào?

 

Các nhà khoa học ngành hoá đã phát hiện ra được chất lân tinh, một dạng phospho có khả năng phát sáng trong bóng tối. Phát kiến mở đường này đã sáng tạo ra nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật phục vụ cuộc sống con người như đèn huỳnh quang, ti vi. Nó cũng đã đi vào y học nhiều năm nay.

Những chất có khả năng phát sáng được gọi là những chất huỳnh quang. Dựa trên một suy nghĩ đơn giản, là nếu làm thế nào đó mà chúng ta gắn được các chất huỳnh quang này vào các tế bào thần kinh thì rõ ràng là quá thuận lợi. Khi ấy, chất huỳnh quang sẽ làm cho các dây thần kinh tự phát sáng. Chúng ta sẽ tận mắt nhìn thấy dây thần kinh chứ không phải mò mẫm. Thế là các nhà khoa học bắt đầu bước vào phòng thí nghiệm.

Kết quả, các chuyên gia của trường Đại học San Diego, California đã tìm ra một phương pháp gắn chuỗi peptid huỳnh quang lên các dây thần kinh. Và kết quả thật như ý, dây thần kinh cùng các nhánh của nó sáng như ban ngày. Bằng những thăm dò tìm kiếm, bác sỹ Nguyễn Quyên, một bác sỹ gốc Việt Nam tại trường Đại học San Diego phối hợp cùng với Roger Tsien, một nhà hoá học, đã phân tích và tìm ra các chuỗi peptid ưa gắn thần kinh, các chuỗi peptid được phân lập từ thực khuẩn thể. Sử dụng các peptid này, các chuyên gia chỉ cần gắn chất huỳnh quang lên mình nó là được một sản phẩm như ý.

Được tiến hành vào năm 2010-2011, chuỗi peptid có gắn chất huỳnh quang được bơm vào mạch máu chuột để thử nghiệm khả năng gắn kết. Các nhà khoa học ở đây thấy, sau 2h, toàn bộ hướng đi và nhánh thần kinh điều khiển của một cơ quan mẫu đã hiển thị. Ánh sáng từ dây thần kinh duy trì trong vài giờ, tức là đủ để thời gian cho một ca phẫu thuật thông thường. Sau một ngày, toàn bộ các peptid huỳnh quang được chuyển hoá và thải trừ. Người ta cũng thấy các hiệu ứng tương tự ở các dây thần kinh đã bị đứt, nó cũng phát sáng, miễn là nó còn sống. Thành công liên tiếp thành công, người ta tiếp tục thử gắn lên mô sống của người, sự phát sáng đến kinh ngạc của dây thần kinh và vùng chi phối của nó đã mở ra hẳn một kỹ thụât mới trong phẫu thuật thần kinh. Có thể, trong một tương lai không xa, chúng ta sẽ không còn phải nhắc đến tai nạn tổn thương dây thần kinh trong phẫu thuật nữa.

Tuy nhiên, mọi công việc dường như mới chỉ là bắt đầu. Người ta còn cần tiến hành thử nghiệm nhiều hơn nữa để có thể đi đến kết luận cuối cùng. Câu hỏi đặt ra là liệu hệ thần kinh có trở về bình thường không sau khi phát sáng. Liệu trí tuệ và tư duy con người có bị thay đổi không nếu chúng ta gắn những peptid huỳnh quang vào não bộ. Liệu các chất này có tác dụng phụ hay độc tính gì không? Những câu hỏi này, có lẽ không phải là ngày một ngày hai chúng ta trả lời được. Và vì thế, nó còn cần thêm nhiều thời gian nữa trước khi được ứng dụng trên con người.

 

Ung thư vòm họng

Bấm xem ảnh ở cửa sổ mớiBố tôi năm nay 60 tuổi, đang điều trị tại Bệnh viện 108 vì ung thư vòm họng. Các BS ở đây đã phẫu thuật cắt bỏ khối u dưới tai phải nhưng hiện vẫn còn một số chân của u bám vào động mạch vành cơ tim (theo lời BS).

Qua nhiều lần xét nghiệm như: chụp CT, cộng hưởng từ và nội soi vòm họng (sau phẫu thuật) thì BS khoa tai mũi họng có kết luận ung thư vòm họng và có hai hướng điều trị: phẫu thuật vòm họng và trị xạ.

Xin các BS phòng mạch Online cho biết tác dụng hai cách điều trị trên và thời gian sống của bệnh nhân qua mỗi phương pháp điều trị. Trân trọng cảm ơn!  

Nguyễn Thu Hà

-Trả lời của phòng mạch online:

Cô Thu Hà thân mến,

Vòm họng là theo cách gọi của miền Bắc hay vòm hầu theo cách gọi của miền Nam là vùng cơ thể nằm sâu phía sau hốc mũi, ngay phía trước cột sống cổ và bên dưới nền sọ.

Tại Việt Nam, ung thư vòm hầu là loại ung thư rất thường gặp trong vùng đầu - cổ. Đặc biệt hơn nữa, Đông Nam Á là một trong hai vùng dịch tễ của bệnh ung thư vòm hầu (vùng còn lại trên thế giới là Bắc Phi châu). Nếu diễn tiến tự nhiên bệnh sẽ lan rộng tại chỗ, di căn vào hạch cổ, xâm lấn nền sọ hoặc nội sọ, trễ hơn nữa là di căn đến các cơ quan khác như phổi, gan, xương.

Bệnh nhân thường đến khám bệnh trong các tình huống sau: chảy máu mũi, khạc ra máu, ù tai, đau tai, nổi hạch cổ, nhức nửa bên đầu, lé (lác) mắt. Để dễ nhớ, chúng ta có thể chia thành các nhóm triệu chứng chính:

- Triệu chứng tai - mũi - họng: chảy máu mũi, khạc ra máu, ù tai, đau tai.

- Hạch cổ, thường nằm cao ngay dưới tai hoặc góc hàm.

- Triệu chứng thần kinh: nhức nửa bên đầu, lé (lác) mắt.

Đối với các bác sĩ ung bướu, khi có một bệnh nhân trên 40 tuổi đến khám vì có một trong các triệu chứng kể trên, chúng tôi sẽ đề nghị soi vòm hầu ngay.

Theo mô tả trong thư, tình huống phát hiện trong trường hợp của bố cô là hạch cổ phải. Sau khi được phẫu thuật lấy hạch cổ, các BS xác định đó là hạch di căn từ ung thư. Sau đó họ tiến hành thêm những xét nghiệm cần thiết và đã xác định tổn thương nguyên phát ở vòm hầu.

Phẫu thuật không có vai trò trong việc điều trị bệnh lý ung thư này vì những lý do sau đây:

- Như đã mô tả ở trên, vòm hầu là vùng cơ thể nằm rất sâu và liên quan nhiều cấu trúc quan trọng của cơ thể. Phẫu thuật thường không thể thực hiện đủ rộng để bảo đảm an toàn về ung bướu học. Nếu như cố gắng phẫu thuật đủ rộng sẽ gây nhiều tổn thương nghiêm trọng đến các cơ quan lân cận.

- Ung thư vòm hầu rất hay di căn vào hạch cổ hai bên, và những khối hạch này nằm rất sâu. Phẫu thuật nạo hạch cũng không thể bảo đảm lấy hết các hạch di căn.

- Loại tế bào thường gặp trong ung thư vòm hầu rất nhạy với xạ trị (đáp ứng rất tốt với xạ trị).

Phương pháp điều trị chủ yếu và có thể nói duy nhất hiện nay với ung thư vòm hầu là xạ trị. Trong một số trường hợp cần thiết, các bác sĩ sẽ kết hợp xạ trị với hóa trị để tăng thêm hiệu quả. Thời gian sống thêm của bệnh nhân tùy thuộc giai đoạn bệnh khi phát hiện. Nếu phát hiện càng sớm thì cơ may khỏi bệnh càng cao.

Tóm lại, bệnh của ba cô chỉ có thể điều trị bằng xạ trị và nên tiến hành sớm.

Theo TT