Lưu trữ cho từ khóa: hồng táo

Hồng táo bổ khí, dưỡng huyết

Hồng táo là quả phơi hay sấy khô của cây táo tàu. Hồng táo có màu đỏ để phân biệt với loại táo màu đen gọi là đại táo. Trong “Thần nông bản thảo kinh” nói: “Cửu phục khinh thân diên niên”, có nghĩa là ăn táo nhiều làm cho cơ thể thanh thoát, khoẻ mạnh sống lâu. Dưới đây xin giới thiệu một số bài thuốc, món ăn có sử dụng hồng táo.

Hồng táo hầm thịt thỏ: Hồng táo 15 quả, thịt thỏ 200g. Cho hồng táo, thịt thỏ vào nồi hầm chín, cũng có thể cho vào nồi đất hầm nhừ, cho gia vị vừa đủ, rồi ăn. Tác dụng: Bổ khí dưỡng huyết, thích hợp với người mắc bệnh ban xuất huyết chảy máu.

Cháo dưỡng tâm:

Nhân sâm 10g, hồng táo 10 quả, mạch đông 10g, gạo nếp 100g, phục thần 10g, đường đen vừa đủ. Cho sâm, táo, mạch đông, phục thần vào nồi nấu lấy nước, cho gạo nếp vào nấu thành cháo sau đó cho lượng đường đen vừa đủ là được. Tác dụng: Dưỡng huyết bổ tim, thích hợp với người bị suy lao do tâm huyết hư.

Cháo đan sâm hồng táo: Đan sâm 30g, gạo nếp 50g, hồng táo 3 quả, đường đỏ 50g. Đan sâm cho nước vào nấu canh, chắt bã sau đó cho gạo nếp, hồng táo và đường đem nấu thành cháo, ăn nóng hoặc ấm, ngày 2 lần, 1 liệu trình là 10 ngày, cách 3 ngày lại uống. Tác dụng: Hoạt huyết khứ ứ, phù hợp với người bị bệnh mạch vành.

Hồng táo lạc nhân: Hồng táo 50g, lạc nhân 100g, đường cát đỏ 50g. Rửa sạch hồng táo, ngâm bằng nước ấm; lạc nhân luộc qua một chút, để nguội bóc vỏ; cho hồng táo và vỏ lạc vào nồi nấu, cho thêm ít nước lạnh, đun nhỏ lửa khoảng 30 phút, vớt vỏ lạc nhân ra, cho đường cát đỏ vào, đợi đường tan hết là được. Tác dụng: Bổ tỳ sinh huyết, phù hợp với người bị thiếu máu do thiếu sắt.

Hồng táo xào hạt dê, thịt gà: Hồng táo 15 quả, hạt dẻ 150g, gà 1 con. Gà làm sạch, thái gà thành miếng xào lửa to, cho thêm ít gia vị và nước đun đến khi gà chín cho hồng táo, hạt dẻ vào om nhừ rồi ăn. Tác dụng: Bổ tỳ thận, phù hợp với người khí suy do huyết áp thấp.

Lương y: Hoài Vũ

Hỗ trợ trị viêm khớp khuỷu bằng thuốc chườm, món ăn

Viêm khớp khuỷu là bệnh thường gặp. Y học cổ truyền có nhiều phương pháp chữa trị bệnh này hiệu quả. Trên số báo thứ năm (152) ra ngày 22/9/2011, chúng tôi đã giới thiệu  đến bạn đọc cách xoa bóp bấm huyệt chữa viêm khớp khủyu, số này chúng tôi giới thiệu những bài thuốc xông, bôi, đắp ngoài và một số món ăn hỗ trợ điều trị bệnh để bạn đọc tham khảo.

Các bài thuốc xông, đắp ngoài:

- Hành củ 20g, gừng già 6g, lá hẹ 20g. Nghiền nát các vị thuốc trên đắp vào chỗ đau ở khuỷu tay, băng chặt lại. Cách ngày thay thuốc 1 lần.

- Gừng tươi 10g giã nhỏ vắt nước, hành củ tươi 5 cây, giã nát nhuyễn, bột đại hoàng sống 4g, rượu trắng và bột mì một ít trộn đều đắp vết đau, ngày 1 lần.

- Hành 1 nắm, gừng tươi 30g, xuyên khung 30g. Tất cả cho vào ấm sắc, đem xông khuỷu, cánh tay đau.

- Hoặc dùng chương mộc 60g, tô mộc 30g, lá ngải cứu 15g, sắc nước xông rửa mỗi ngày 1 lần.


Cháo đậu đen hoạt huyết chữa viêm khớp.

Món ăn - bài thuốc

- Cháo đỗ đen: đỗ đen 100g, rửa sạch cho vào nồi, nước vừa phải đun chín dở. Mặt khác dùng vị tô mộc 15g, kê huyết đằng 30g, cho nước đang sôi trong 40 phút rồi lọc bỏ bã lấy nước, cho đỗ đen chín dở vào gạo lức 100g đã vo sạch, lại thêm nước cho vừa đủ, đun sôi rồi hạ nhỏ lửa nấu thành cháo, thêm đường đỏ tùy thích. Ăn ngày 2 lần .

- Cháo củ từ, hồng táo: củ từ 100g, hồng táo 10 quả, gạo lức 250g. Đem 3 vị rửa sạch cùng đổ vào nồi, nước vừa đủ đun to lửa cho sôi rồi chuyển đun nhỏ lửa ninh nhừ thành cháo. Ăn lúc nóng này 2 lần.

- Cháo rắn hổ mang, tê tê: rắn hổ mang 1 con, vẩy tê tê nướng 15g, gạo lức 100g. Cho hai thứ trên vào nước rồi đổ gạo đã voc ho sạch vào nấu cháo. Ăn trong ngày, ăn liền 40 ngày.

Lương y Minh Chánh

Meo.vn (Theo SK&ĐS)

Củ ấu trị cảm sốt

Củ ấu tên khoa học Trapa bicornis L- Hydrocaryaceae, họ củ ấu Trapaceae, còn gọi là ấu trụi, ấu nước, kỵ thực, hạt dẻ nước, năng thực (Trung Quốc). Là loại thực vật thủy sinh sống dưới nước, mọc trong ao đầm, thân ngắn có lông. Quả thường gọi là củ có hai sừng, quả cao 35mm, rộng 5cm, sừng dài 2cm, đầu sừng hình mũi tên, sừng do các lá đài phát triển thành. Trong củ chứa một hạt ăn được, có vị ngọt mát, bùi, giàu dinh dưỡng. Củ ấu có 4 loại là ấu đỏ, ấu 2 sừng, ấu 3 sừng và ấu 4 sừng.

Cây củ ấu được trồng ở các ao đầm khắp nơi trong nước ta. Trồng bằng hạt hay bằng chồi. Mùa hoa (ở miền Bắc) vào tháng 5 - 6; mùa quả vào các tháng 7 - 9. Quả cũng để ăn, vỏ quả và toàn cây dùng làm thuốc. Dùng tươi hay phơi hoặc sấy khô.

Thành phần hóa học: Trong hạt ấu có tinh bột chừng 49% và chừng 10,3% protid. Các chất khác chưa thấy nghiên cứu. Theo tài liệu Trung Quốc, trong 100g củ ấu chín có 4,5g albumin, 0,1g chất béo, 19,7g chất đường các loại, 0,19g vitamin B1, 0,06g B2, 1,5mg PP, 13mg C, 7mg Ca, 0,7mg sắt, 19mg Mn, 93mg P. Chất AH13 là chất chiết ung thư gan được dùng hỗ trợ điều trị chống ung thư.

Theo Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân, củ ấu vị ngọt chát, tính bình. Công dụng thoát tả, giải độc, tiêu thũng. Dùng chữa tiêu chảy, kiết lỵ, đại tiện ra máu, bệnh dạ dày. Mỗi lần dùng 30-60g sắc uống. Củ ấu đốt tồn tính, tán bột trộn dầu vừng bôi chữa trĩ, mụn nước, viêm nhiễm ngoài da; nấu vỏ lấy nước rửa hậu môn chữa sa trực tràng (lòi dom).

Công dụng và liều dùng: Củ ấu chủ yếu được nhân dân dùng luộc ăn hoặc chế biến thành bột trộn với mật hay đường làm bánh. Quả sao cháy dùng chữa nhức đầu, choáng váng và cảm sốt. Ngày dùng 3-4 quả dưới dạng thuốc sắc. Vỏ quả sao cho thơm, sắc uống chữa sốt, chữa mệt nhọc khi bị sốt rét, còn dùng chữa loét dạ dày, loét cổ tử cung. Toàn cây chữa trẻ con sài đầu, giải độc rượu, làm cho sáng mắt. Ngày dùng từ 10-16g dưới dạng thuốc sắc. Dùng ngoài không kể liều lượng. Cần lưu ý, tuy củ ấu là vị thuốc, ăn ngon, nhưng ăn nhiều sẽ gây trệ khí, do đó những người có u cục ở ngực bụng không dùng.

Dưới đây là một số cách trị bệnh từ cây, củ ấu:

- Chữa nhức đầu, choáng váng, cảm sốt: lấy 3 - 4 củ ấu sao cháy, sắc uống, ngày 1 thang.

- Sốt, sốt rét, loét dạ dày: vỏ củ ấu sao thơm, sắc uống.

- Giải độc rượu, làm sáng mắt, chữa sài đầu trẻ: lấy 10-16g toàn cây, sắc uống.

- Rôm sảy, da khô sạm: dùng củ ấu tươi, giã nát, xoa lên da.

- Viêm loét dạ dày: thịt củ ấu 30g, củ mài 15g, hồng táo 15g, bạch cập 10g, gạo nếp 100g, nấu cháo, cho thêm 20g mật ong, trộn đều ăn.

- Hư nhược phiền khát: thịt củ ấu tươi 50g, địa cốt bì 15g, câu kỷ tử 6g, hoàng cầm 6g, cam thảo chế 6g. Sắc uống.

- Trị say rượu: thịt củ ấu tươi 250g, nhai nuốt.

- Trị tỳ vị hư nhược: thịt củ ấu 50g, bạch truật 15g, hồng táo 15g, sơn tra 10g, sơn dược 15g, màng mề gà 6g, cam thảo chế 3g. Sắc uống.

- Trị đại tiện ra máu: vỏ củ ấu 60g, địa du 15g, tiêu sơn căn 6g, ô mai 10g, cam thảo chế 6g. Sắc uống.

- Trị bệnh trĩ, nhọt nước: vỏ củ ấu sấy khô, đốt tồn tính, tán bột, trộn đều với dầu vừng, bôi hoặc đắp.

BS. HOÀNG XUÂN ĐẠI

Meo.vn (Theo SKĐS)

Công dụng chữa bệnh của các loài hoa cúc

Theo Đông y, kim cúc vị đắng, cay, có tác dụng thanh nhiệt, giải nhiệt, chữa mụn nhọt sưng đau, đau mắt đỏ có sưng, đau đầu chóng mặt, chữa cảm lạnh, cúm, viêm mũi, viêm vú, hoa mắt, huyết áp cao, viêm gan, kiết lỵ...  

Mỗi loài hoa cúc chữa được nhiều bệnh khác nhau. Dưới đây là ứng dụng chữa bệnh từ các loài hoa cúc...  

Kim cúc

Theo Đông y, kim cúc vị đắng, cay, có tác dụng thanh nhiệt, giải nhiệt, chữa mụn nhọt sưng đau, đau mắt đỏ có sưng, đau đầu chóng mặt, chữa cảm lạnh, cúm, viêm mũi, viêm vú, hoa mắt, huyết áp cao, viêm gan, kiết lỵ... Nếu bị cảm mạo phong nhiệt, thì dùng kim cúc 20g, củ sắn dây 15g, lá dâu tằm 10g, rễ cây lau 8g, bạc hà, cam thảo mỗi vị 5g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần.  

Nếu bị đinh nhọt, dùng kim cúc, bồ công anh mỗi vị 30g, từ hoa địa linh 20g, kim ngân 5g. Sắc uống vào lúc đói, ngày 1 thang chia 3 lần, uống 3 ngày liền. Viêm tuyến vú, lấy kim cúc 20g, kim ngân hoa, bồ công anh, cam thảo (mỗi vị 12g), sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần cho đến lúc khỏi. Bên ngoài dùng lá kim cúc cùng hành, muối, giã nhỏ đắp nơi đau ở vú một lần trong ngày. Giảm béo, dùng hoa cúc vàng vừa nở đem phơi khô để pha trà uống đều đặn có tác dụng 'thanh lý' chất dầu mỡ dư thừa trong cơ thể đạt hiệu quả giảm béo mà không hề gây hại cho cơ thể. Chữa sáng mắt, trừ màng mộng mắt: sử dụng cánh hoa cúc nấu canh cá trong bữa ăn, hoặc trộn cánh hoa tươi vào gạo thổi cơm (mỗi nồi cơm 2 bông).

Cúc vạn thọ

Cúc vạn thọ vị đắng, mùi thơm, tính mát, tác dụng tiêu viêm, làm long đờm, trị ho, lá cúc vạn thọ làm mát gan, phổi, giải nhiệt, chữa đau mắt, ho gà, viêm miệng, đau răng, dùng đắp ngoài để trị viêm tuyến mang tai, viêm vú, viêm da mủ. Ho gà: hoa cúc vạn thọ 15g, đường phèn 10g. Sắc lấy 150 ml chia 3 lần uống trong ngày. Uống liền 3–5 ngày. Đau răng: hoa cúc vạn thọ 5 cái, lá nhãn 5 lá, muối ăn chừng 15 hạt. Rửa sạch giã nhỏ chia 3 phần đều nhau, mỗi lần đặt một phần thuốc vào nơi răng đau. Còn hai phần ngậm thay đổi mỗi lần một phần. Chữa đau mắt đỏ: lá cúc vạn thọ 10 lá, lá dâu non 10 lá, rửa sạch cho vào ca đổ nước sôi vào và xông hơi nơi mắt đau (không để gần quá gây bỏng mắt). Ngày làm một lần trong 2–3 ngày. Mụn nhọt chưa vỡ: lá cúc vạn thọ 10g, lá táo ta 15g, muối ăn 10 hạt. Rửa sạch, giã nhỏ, đắp vào nơi đau. Ngày thay 1 lần.

Sơn bạch cúc

Sơn bạch cúc có tác dụng sơ phong thanh nhiệt, giải độc, trừ đờm, trấn ho, chữa trị cảm mạo phong nhiệt, viêm amidan, viêm phế quản, nhọt sưng, rắn cắn, o­ng đốt. Chữa viêm tuyến vú: sơn bạch cúc 40g, hoa kim ngân 20g, sắc uống. Chữa rắn cắn: sơn bạch cúc ép lấy nước, hoặc nước sắc sơn bạch cúc khô mà đắp. Trừ ho tiêu đờm: sơn bạch cúc 5 bông, mộc nhĩ trắng 10g, hạnh nhân 8g, hồng táo 6 quả, đường phèn 1 thìa to. Bạch cúc tách từng cánh, rửa sạch, để ráo, mộc nhĩ trắng ngâm nước cho mềm, cắt bỏ đầu thô, thái thành đoạn nhỏ, hạnh nhân rửa sạch, hồng táo ngâm mềm. Cho mộc nhĩ, hạnh nhân, hồng táo cùng 4 bát nước vào nồi ninh, khi táo đỏ mềm thì cho đường phèn vào hòa đều, để nguội, rắc hoa vào là ăn được, hoặc để trong tủ lạnh dùng dần.

Cúc bách nhật

Cúc bách nhật vị ngọt hơi chát, tính bình, tác dụng tiêu viêm, chống ho... được dùng chữa hen phế quản, viêm phế quản cấp hay mãn, ho gà, đau mắt, đau đầu... Chữa đau đầu: lấy hoa cúc bách nhật, lá ngò tây, mỗi vị 5g, ngải cứu 10g, lá chanh, hương nhu mỗi vị 8g. Sắc uống ngày một thang, dùng trong 5 ngày liền.

Cúc mốc

Cúc mốc vị cay, thơm, tính mát, được dùng chữa thổ huyết, chảy máu cam, chữa sởi, lở, ù tai, trị ho và làm thuốc điều kinh... Chữa ho: lá cúc mốc 15g, lá húng chanh 20g, đem sắc uống ngày 1 thang, trong 5 ngày. Điều kinh: Lá cúc mốc 20g, lá ích mẫu 15g, ngải cứu 10g, đem sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần, uống thuốc lúc nóng.

Theo Lương y Hoài Vũ/Thanh Niên

Món ăn giúp trị viêm gan mạn

Trong trị liệu bệnh chứng, Đông y có nhiều cách như dùng thuốc thang, thuốc hoàn tán, cứu và châm cứu… nhưng đặc biệt là món ăn thuốc vừa tiện lợi, lại dễ ăn khiến cho mỗi khi người bệnh uống thuốc mà vẫn cho rằng là món ăn chứ không phải là thuốc.


Song trong trị liệu chứng viêm gan mạn vấn đề ăn uống nhiều khi còn quan trọng hơn cả dùng thuốc. Đông y có những món ăn bài thuốc giúp chữa trị hoặc hỗ trợ quá trình trị liệu chứng viêm gan mạn, đã được kiểm chứng trên thực tế và có thể áp dụng trong điều kiện gia đình. Tùy vào bệnh cảnh biểu hiện mà chọn lựa sử dụng sao cho phù hợp, an toàn.

Nhân trần mạch nha hồng táo thang: phù hợp cho trường hợp viêm gan mạn với các triệu chứng như hai bên sườn trướng đau, bụng trướng, ngực khó chịu hoặc lợm giọng, nôn ọe nước chua, kém ăn, đau bụng, tiêu chảy, khắp mình đau buốt, rêu lưỡi mỏng, mạch huyền.

Nhờ phương này có công hiệu xúc tiến chứng năng gan, thông mật, thanh nhiệt, trừ thấp, tiêu thực, trừ trướng.

Phương gồm: Nhân trần 15g, mạch nha (hoặc cốc nha, tức mầm thóc) 20g, hồng táo (táo tàu) 10 quả, đường trắng vừa đủ ngọt. Táo tàu đem ngâm nước ấm một lúc rồi rửa sạch. Cho nhân trần, mạch nha và táo vào nồi, đổ nước vào cho ngập thuốc, đun sôi, giữ lửa nhỏ khoảng 30 phút, sau đó cho thêm chút đường vào. Chia làm hai phần dùng 2 lần trong ngày; uống nước, ăn táo, bỏ bã.

Gan lợn xào củ cải: Có công dụng điều trị nhất định đối với bệnh viêm gan mạn và viêm túi mật, phòng biến chứng từ viêm gan sang ung thư gan. Nhờ công hiệu của phương là bổ gan, sáng mắt, thanh nhiệt, tiêu thực.

Phương gồm: Gan lợn 250g, củ cải 250g, dầu thực vật, bột mỳ, muối, mì chính, gia vị vừa đủ. Gan lợn đem rửa sạch, thái lát mỏng, trộn đều với muối, tẩm chút bột mỳ. Củ cải cũng thái mỏng, cho một thìa dầu thực vật vào chảo đun nóng già, cho gan lợn vào xào độ 3 phút rồi đổ củ cải vào tiếp khoảng 3 phút, thêm mắm muối, gia vị rồi múc ra là ăn được. Dùng làm thức ăn trong bữa cơm hằng ngày.

Ba ba hấp với gừng: Đây là món ăn có nhiều chất bổ, rất tốt với những bệnh nhân viêm gan mạn, cơ thể suy nhược. Nên dùng tốt cho những trường hợp viêm gan kèm theo sốt nhẹ, đêm ngủ ra mồ hôi trộm. Nhờ công hiệu của phương là dưỡng âm thanh nhiệt.

Phương gồm: Ba ba một con cỡ 200-300g, gừng tươi 5g, muối, rượu nếp mỗi thứ một chút. Dùng nước nóng rửa sạch bên ngoài, mổ bụng, bỏ ruột, giữ lại gan và trứng, rửa sạch, lau khô. Đặt ngửa con ba ba lên một cái đĩa, cho gừng đã thái lát, muối và một chút rượu nếp vào bụng. Đem hấp cách thủy 30-45 phút. Có thể dùng làm món điểm tâm hoặc làm thức ăn trong bữa cơm, chú ý là cần ăn lúc nóng.

(Theo Sức khoẻ đời sống)

Món ăn cho sản phụ bị nhiệt

Nhiều phụ nữ sau khi sinh con thấy nóng, bứt rứt khó chịu trong người, dễ cáu giận, táo bón, nước tiểu sẫm màu. Ngoài việc kiêng chất cay nóng, có thể sử dụng một số món ăn để cải thiện.

Canh bầu dục lợn:

Bầu dục lợn 1 quả, đậu xị 15 g, hành 10 g, gạo tẻ 50 g. Bầu dục lợn rửa sạch cho cùng gạo tẻ, đậu xị vào nồi, đổ nước nấu thành canh, ăn hết một lần. Ngày ăn 1 lần, trong vài ngày.

Canh mộc nhĩ đen, quả dâu:

Mộc nhĩ đen 10 g, quả dâu 30 g, hồng táo 7 quả. Tất cả cho vào nồi nấu chín, làm món ăn điểm tâm.

Cháo thịt, đậu xị, hành:

Hành 10 g, đậu xị 10 g, nấu lấy nước, xong cho thịt xay nhỏ vào nấu thành cháo, ăn ngày 1 lần.

Cháo chim bồ câu, hạnh nhân:

Thịt chim bồ câu 100 g, hạnh nhân ngọt 100 g, nấu ăn ngày 1 lần. Cần ăn trong 5-7 ngày liền.

Tim hầm muối:

Tim lợn 1 quả, cho lửa nhỏ hầm, nêm muối, ăn cái uống nước.

Cháo cá, đậu xị:

Đậu xị 15 g, thịt cá chầy bạc 100 g, nấu chung ăn hết một lần.

Trà dây mướp:

Dây mướp 10 g, cho nước vào sắc lấy nước uống thay trà trong ngày.

Cháo lươn, nước gừng:

Lươn 150 g, nước gừng ép 10-20 ml. Tất cả cho cùng gạo tẻ nấu thành cháo ăn.

Món cháo rau cải dầu:

Lấy 100 g cải dầu nấu với gạo tẻ thành cháo ăn ngày 1 lần.

(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)

Thực phẩm giúp phòng và chữa cận thị

Cận thị là bệnh liên quan mật thiết đến vấn đề ăn uống. Vậy nên từ xưa, trong Đông y học đã có khoa 'Thực Trị', tức là khoa chữa bệnh bằng các thức ăn đồ uống trong đó có nhiều món có tác dụng bổ dưỡng và chữa trị các chứng bệnh ở mắt.

Phòng cận thị

- Điểm tâm: Caramen trộn mật ong

Cách chế và dùng: Đánh đều trứng gà với 1 ly sữa. Đun cách thủy đến khi chín, đến khi thấy chỉ còn âm ấm thì trộn mật ong vào. Ăn sau khi ăn sáng.

Trứng gà và sữa là những món ăn có giá trị dinh dưỡng cao. Chúng có tác dụng tốt đối với thần kinh, võng mạc và các bộ phận của mắt, đặc biệt là có tác dụng làm tăng độ dẻo dai của các cơ mắt. Mật ong cũng bao gồm nhiều hoạt chất sinh học quý. Các thứ thức ăn trên có tác dụng tăng cường sức khỏe toàn thân và phòng chống cận thị.

- Món lót dạ buổi chiều

Thành phần: 10g kỷ tử, 3g trần bì (vỏ quýt lâu ngày), 10 quả long nhãn, mật ong 1 muỗng nhỏ.

Cách chế và dùng: Kỷ tử và trần bì gói vào vải mỏng rồi cùng đun với các thứ còn lại. Cho nước vừa phải, đun nhỏ lửa trong 1/2 giờ; vớt kỷ tử và trần bì ra rồi ăn phần còn lại. Ăn lót dạ thêm vào đầu giờ chiều.

Kỷ tử bổ can, thận, là vị thuốc làm sáng mắt kinh điển trong Đông y. Long nhãn an thần, bổ tỳ. Trần bì kiện tỳ, khai vị. Các vị thuốc trên đồng thời cũng là thức ăn có tác dụng bổ dưỡng toàn thân và phòng các bệnh về mắt.

Nếu có điều kiện, nên thường xuyên sử dụng hai món ăn trên.

Chữa cận thị

Thành phần: Kỷ tử 10g, trần bì 3g, hồng táo 8 quả, mật ong 2 thìa.

Cách làm: Lấy kỷ tử, trần bì và  đại táo đun nhỏ lửa với 200ml nước trong 20 phút, chắt nước ra rồi thêm nước vào, đun lần thứ hai như trên. Hai nước trộn đều, chia hai lần uống; các lần uống cách nhau 3 đến 4 tiếng. Mỗi lần uống thêm một thìa mật ong vào.

Hồng táo, ta thường gọi là 'táo tàu', bán ở các hiệu thuốc. Hồng táo chứa các sinh tố A, B2, C và các nguyên tố vi lượng có ích cho mắt; tác dụng tăng cường cơ nhục của nó đã được chứng minh bằng thực nghiệm. Món ăn trên có tác dụng bổ tỳ, can, thận; đặc biệt là tăng cường sự dẻo dai của các cơ vùng củng mạc và vùng thể mi, những loại cơ có liên quan mật thiết đến chứng cận thị.

Theo Sức khỏe & Đời sống

Chữa bệnh từ gạo nếp

Bấm xem ảnh ở cửa sổ mớiGạo nếp là loại lương thực quá quen thuộc với mọi người. Vào dịp lễ tết không nhà nào không dùng gạo nếp: bánh chưng, bánh tét, nấu xôi, nấu chè, làm các loại bánh. Tuy nhiên không phải ai cũng biết gạo nếp còn có tác dụng chữa bệnh như dưới đây.

Những ai không dùng nhiều gạo nếp?

Gạo nếp còn gọi là nọa mễ, đạo mề, giang mễ, nguyên mễ, là nhân của cây lúa nếp. Thành phần chính gồm có: chất bột 75%, protein 6,7%, chất béo, canxi, phospho, sắt, vitamin B1, PP, axit fumalic, axit butanedioic, cùng đường saccarôzơ, mạch nha... 100g gạo nếp cho độ 347 kcal.

Theo y học cổ truyền, gạo nếp có tính ôn, vị ngọt, trung ích khí, ấm tỳ vị, giải độc, trừ phiền, chữa chứng hay toát mồ hôi, tả, dạ dày, ruột hư hàn, hay đi tiểu, tiểu về đêm nhiều. Với cổ truyền, gạo nếp thường được dùng để chữa suy nhược cơ thể, tiêu chảy do tỳ vị hư nhược, viêm loét dạ dày, tá tràng...

Tuy nhiên do nó có tính ấm nên những người mang thể chất thiên nhiệt hoặc đàm nhiệt, người đang có sốt, ho khạc đờm vàng, vàng da, trướng bụng thì không nên dùng. Ngoài ra, chất amilopectin - thành phần tạo độ dẻo của cơm nếp lại gây khó tiêu, vì vậy không nên dùng nhiều gạo nếp cho trẻ nhỏ, người già, người mới ốm dậy, người tỳ vị quá hư nhược. Nếu muốn ăn quá, thì tốt nhất là nấu thành cháo.

Những cách vận dụng gạo nếp chữa bệnh

Dân gian hay dùng cơm nếp nóng để chườm chữa tắc tia sữa cho sản phụ; hoặc lấy cơm nếp nguội giã nhuyễn, trộn với bột thuốc để bó gãy xương và bong gân; dân gian còn dùng gạo nếp để chữa rối loạn bài tiết mồ hôi, tiểu đường, rối loạn tiền đình, thiểu năng tuần hoàn não, chứng buồn nôn ở phụ nữ có thai.

* Gạo nếp 30g tán thành bột mịn, nấu thành dạng hồ loãng, chế thêm 30g mật ong, chia ăn vài lần trong ngày để dùng cho người mắc chứng vị âm hư với biểu hiện: miệng khát muốn uống nhiều nước, ăn kém, hay nôn và buồn nôn. Phương thuốc này còn có tác dụng lợi mật, giảm đau, dùng cho các trường hợp có cơn đau quặn gan do giun chui lên đường mật.

* Mệt mỏi không có sức: Cho gạo vào bao tử heo nướng khô, giã ra làm viên hoàn để ăn hằng ngày.

* Đi lỵ cấm khẩu: Một bát lúa nếp rang cho nổ trắng, bỏ vỏ trấu, trộn với nước gừng rồi sao cho thành bột. Mỗi ngày ăn một thìa với nước canh. Ngày dùng 3 lần.

* Viêm dạ dày mãn tính, và loét dạ dày: Gạo nếp cho thêm táo tàu vừa đủ đun thành cháo loãng mà ăn. Ngày 1 - 2 lần, có thêm ít nho khô vào cháo mà đun chín để ăn.

* Thiếu máu do thiếu sắt: Gạo nếp 100g, đậu đen 30g, hồng táo 30g, đun thành cháo. Mỗi ngày ăn 1 - 2 lần.

* Cơ thể suy nhược sau khi ốm dậy: Gạo nếp, hạt sen lượng vừa đủ, đem đun thành cháo. Mỗi ngày ăn sáng và tối.

* Tiêu hóa kém, hay đi lỏng: Gạo nếp, hạt sen, khoai mài lượng vừa đủ. Đun thành cháo mà ăn.

* Trẻ con hay nôn trớ sữa: Gạo nếp sao vàng đun nước cho uống.

* Đái tháo đường: Hoa gạo nếp (lúa nếp rang cho nổ trắng ra, bỏ vỏ) vỏ lụa cây dâu (vỏ trắng) mỗi thứ 100g, sắc uống; hoặc gạo nếp 100g, đậu xanh 50g, nấu cháo ăn.

* Thở không tốt, ho: Gạo nếp và đường phèn lượng vừa phải, đồ chín lên ăn.

Theo Thanh Niên

Gạo nếp chữa bệnh viêm loét dạ dày

Trong y học cổ truyền, gạo nếp thường được dùng để chữa suy nhược cơ thể, tiêu chảy, viêm loét dạ dày, tá tràng...

Gạo nếp là loại thực phẩm quá quen thuộc với mọi người. Vào dịp lễ tết không nhà nào không dùng gạo nếp: bánh chưng, bánh tét, nấu xôi, nấu chè, làm các loại bánh. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết gạo nếp còn có tác dụng chữa bệnh.

Dân gian hay dùng cơm nếp nóng để chườm chữa tắc tia sữa cho sản phụ. Lấy cơm nếp nguội giã nhuyễn, trộn với bột thuốc để bó gãy xương và bong gân. Gạo nếp còn được dùng để chữa rối loạn bài tiết mồ hôi, tiểu đường, rối loạn tiền đình, thiểu năng tuần hoàn não, chứng buồn nôn ở phụ nữ có thai...

Xin giới thiệu một số bài thuốc đã được ghi nhận công dụng trong điều trị bệnh để bạn đọc tuỳ điều kiện của mình mà chọn lựa thực hành:

Gạo nếp hấp rượu vang: gạo nếp 250g, rượu vang 500ml, trứng gà hai quả. Tất cả cho vào bát to, đem hấp cách thuỷ cho chín, chia ăn vài lần. Dùng để bồi bổ cho người suy nhược cơ thể sau khi bị bệnh nặng.

Gạo nếp mật ong: gạo nếp 30g tán ra bột mịn, nấu thành dạng hồ loãng, chế thêm 30g mật ong, chia ăn vài lần trong ngày để dùng cho người miệng khát muốn uống nhiều nước, ăn kém, hay nôn và buồn nôn. Phương thuốc này còn có tác dụng lợi mật, giảm đau, dùng cho các trường hợp có cơn đau quặn gan do giun chui lên đường mật.

Bao tử heo nhồi gạo nếp: cho gạo nếp lượng vừa đủ vào bao tử heo, nướng khô, giã ra làm viên hoàn để ăn hàng ngày. Cách khác, cho thêm vào gia vị các loại, buộc kín miệng, đem hấp cách thuỷ cho thật chín rồi chia ăn vài lần.

Cháo gạo nếp hạt sen: người bệnh mới khỏi, cơ thể suy nhược, lấy gạo nếp, hạt sen lượng vừa đủ, đem nấu thành cháo. Mỗi ngày ăn sáng và tối.

Gạo nếp tán hoài sơn: gạo nếp 500g ngâm nước một đêm, để ráo rồi sao thơm. Hoài sơn 50g, sao vàng. Hai thứ tán thành bột mịn, mỗi sáng dùng 20 – 30g, khuấy đều với nước sôi, thêm chút đường đỏ và hạt tiêu để làm món điểm tâm. Dùng cho những người bị bệnh đường ruột, đại tiện lỏng nát kéo dài, chán ăn, mệt mỏi.

Cháo gạo nếp táo tàu: gạo nếp lượng vừa đủ, cho thêm táo tàu đun thành cháo loãng mà ăn. Ngày ăn từ 1 – 2 lần, giúp trị viêm dạ dày mãn tính và loét dạ dày.

Gạo nếp sắc với gừng: gạo nếp 20g, sao vàng; gừng tươi ba lát giã nhỏ. Đem hai thứ sắc với 200ml nước còn 50ml, uống trong ngày để chữa nôn mửa không dứt. Cách khác, gạo nếp, mạch môn, đẳng sâm mỗi thứ 12g, bán hạ 6g, cam thảo 4g, nấu nước uống.

Cháo gạo nếp đậu đen: gạo nếp 100g, đậu đen 30g, hồng táo 30g, đun thành cháo. Mỗi ngày ăn từ 1 – 2 lần, trị thiếu máu do thiếu sắt.

Gạo nếp trộn hoàng liên, dầu vừng: gạo nếp 100g, nấu thành cơm nếp rồi đốt thành than. Sau đó trộn đều với bột hoàng liên (30g) và dầu vừng, bôi chữa chứng chốc đầu ở trẻ em.

Cháo gạo nếp đậu xanh: gạo nếp 100g, đậu xanh 50g, nấu cháo ăn để hỗ trợ điều trị chứng tiêu khát của bệnh đái tháo đường. Cách khác, hoa gạo nếp (lúa nếp rang cho nổ trắng ra, bỏ vỏ), vỏ lụa cây dâu (vỏ trắng) mỗi thứ 100g, sắc uống.

Cháo gạo nếp nấu suông: còn gọi là cháo hoa (lấy gạo nếp, cho thêm nước vào nấu chín) có tác dụng làm mát ruột cho những trường hợp nặng bụng. Nếu nấu nhừ với chân giò hoặc móng giò heo, lõi thông thảo, đu đủ non và lá sung sẽ giúp làm tăng tiết sữa.

Theo ThS.BS Hoàng Khánh Toàn

SGTT

(Dantri)

Đông y với bệnh vảy nến

Bệnh vảy nến là một bệnh ngoài da rất phổ biến trên thế giới và Việt Nam. Bệnh mang tính di truyền, không nguy hại đến tính mạng, không lây nhưng thường kéo dài, tái phát, gây nhiều khó chịu cho bệnh nhân. Theo y học cổ truyền, bệnh vảy nến gọi là tùng bì tiễn, là bệnh ngoài da mạn tính hay tái phát. Thương tổn cơ bản của bệnh vảy nến là đỏ da, có vảy nổi cộm ít hoặc nhiều. Nền đỏ này thường có vảy trắng, xám phủ lên trên, phải cạo hết lớp vảy này mới thấy rõ. Bệnh hay phát vào mùa đông, ở da đầu và mặt ngoài của tay, chân; nặng thì phát ra toàn thân kèm theo sưng đau các khớp tay chân. Y học cổ truyền cho nguyên nhân của bệnh vảy nến là do huyết nhiệt, lại cảm phải phong hàn mà thành bệnh, lâu ngày làm huyết táo, không dinh dưỡng được da sinh vảy nến.

Sau đây là các bài thuốc chữa trị bệnh này tuỳ theo từng thể bệnh:

Thể phong huyết nhiệt:

Triệu chứng: những nốt chấm đỏ xuất hiện nhiều, liên tục, lâu ngày to dần, màu hồng tươi, ngứa nhiều.

Phép chữa: khu phong, thanh nhiệt, lương huyết.

Bài thuốc 1: hoa hoè 20g, sinh địa 20g, thổ phục linh 16g, ké dầu ngựa 16g, hy thiêm 16g, cây cứt lợn 12g, thạch cao 20g, cam thảo đất 16g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần.

Bài thuốc 2 (Hoè hoa thang gia giảm): hoè hoa sống 40g, thăng ma 12g, sinh địa 40g, thổ phục linh 40g, tử thảo 12g, thạch cao 40g, ké đầu ngựa 20g, địa phu tử 12g, chích thảo 4g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần.

Thể phong huyết táo:

Triệu chứng: ở thể bệnh kéo dài, có triệu chứng: những nốt mới ít xuất hiện, những nốt cũ màu hơi đỏ, ngứa, mặt da khô.

Phép chữa: dưỡng huyết, nhuận táo, khu phong.

Bài thuốc 1: hà thủ ô 20g, đương quy 20g, khương hoạt 16g, thổ phục linh 40g, ké đầu ngựa 16g, sinh địa 16g, huyền sâm 12g, oai linh tiên 12g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần.

Bài thuốc 2: huyền sâm, sinh địa, kim ngân hoa, ké đầu ngựa, hà thủ ô, vừng đen mỗi vị 12g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần.

Bài thuốc tắm rửa: hoả tiêu, phác tiêu, khô phàn, dã cúc hoa mỗi thứ 15g. Nấu nước tắm rửa, ngày 1 lần.

Kết hợp day bấm các huyệt: khúc trì, nội quan, thần môn, túc tam lý, tam âm giao, phi dương.

Những bài thuốc theo kinh nghiệm của Hải Thượng Lãn Ông và Tuệ Tĩnh:

Bài thuốc của Hải Thượng Lãn Ông: + ngải cứu khô 2 nắm tay, tẩm ít bột mỳ, nấu nước uống hằng ngày.

Phèn chua, vỏ lựu, tán nhỏ hoà dấm mà bôi.

Cây và củ sinh địa.

Bài thuốc của Tuệ Tĩnh: rễ cây núc nác 1 nắm, sinh địa 10 củ (trồng ở vườn) đều đập nát, thạch tín một ít, tán nhỏ, dấm chua 1 bát (200ml). Tất cả bỏ vào lọ, lấy bùn trát kín, đun cách thuỷ 10 giờ, rồi đem ra xức (ngửi). Không để thuốc vào mắt, mặt (thạch tín là thuốc độc bảng A). Nếu nổi vết đỏ, tròn bằng đồng tiền, ngứa, chảy nước vàng thì dùng: xương chó vàng 2 phần, vỏ trứng gà con so 1 phần, tóc rối 1 phần. Tất cả đốt ra tro, tán nhỏ, hoà dầu vừng, xát vào tổn thương.

Ăn uống hỗ trợ trị bệnh: Người bệnh vảy nến nên thường xuyên ăn cháo tang thầm, hồng táo: tang thầm (quả dâu tằm) 30g, hồng táo 10 quả, bách hợp 30g, gạo lức 100g. 3 vị trên cho nước ninh kỹ, sau khi bỏ bã cho gạo đã vo sạch vào nấu thành cháo. Ngày dùng 1 liều, ăn liền 1 tuần là một liệu trình, nghỉ 1 tuần, ăn tiếp và cứ ăn như thế đến khi bệnh thuyên giảm.

Lưu ý: Bệnh vảy nến không nguy hại nhưng thường kéo dài và hay tái phát. Cần chú ý ăn uống thanh đạm, ít mỡ, nhiều rau quả, vitamin. Tránh bia rượu, thịt trâu, thịt chó, các thức ăn khó tiêu. Tránh thức đêm, căng thẳng thần kinh. Cần giải trí vui chơi lành mạnh, tâm hồn thanh thản.  

Vị trí huyệt

Khúc trì: gấp cánh tay vào ngực, huyệt ở đầu khuỷu cẳng tay cách cùi chỏ khoảng chiều ngang của 3 ngón tay 2 - 3 - 4.

Nội quan: từ lằn chỉ cổ tay, phía lòng bàn tay đo lên 2 tấc, ở giữa 2 đường gân.

Thần môn: chỉ cổ tay phía lòng bàn tay đầu xương quay (từ ngón út kéo xuống đến chỉ cổ tay).

Túc tam lý: nằm ở bắp chân ngoài, dưới đầu gối 3 tấc, ngay tại đầu ngoài nếp nhăn ngang dưới đầu gối.

Tam âm giao: trên mắt cá chân trong 3 tấc, sát phía sau bờ xương chày.

Phi dương: trên mắt cá ngoài chân 7 tấc.

Thay đổi day bấm trong 1 tuần: các huyệt khúc trì, nội quan, thần môn day bấm trong 3 ngày sau đó chuyển sang day bấm huyệt túc tam lý, tam âm giao, phi dương trong 3 ngày là một đợt, nghỉ 1 ngày rồi tiếp đợt 2…

 

Lương y Minh Chánh

(Theo SKDS)