Lưu trữ cho từ khóa: dị tật bẩm sinh

Giai đoạn đầu thai kỳ tiếp xúc với ô nhiễm không khí con dễ bị dị tật bẩm sinh

Một nghiên cứu mới đây phát hiện ra rằng phụ nữ tiếp xúc với ô nhiễm không khí trong giai đoạn đầu thai kỳ tăng nguy cơ sinh con bị một số dị tật bẩm sinh nghiêm trọng.

mang thai

Nghiên cứu này gồm những thai phụ sống ở thung lũng San Joaquin, California trong ít nhất là 8 tuần đầu thai kỳ. Thung lũng San Joaquin là một trong những vùng bị ô nhiễm khói bụi nặng nề nhất ở Mỹ.

"Chúng tôi phát hiện ra mối liên quan giữa các chất ô nhiễm giao thông và dị tật ống thần

kinh ở trẻ", trưởng nhóm nghiên cứu Amy Padula thuộc trường y đại học Stanford cho biết sau khi xem xét 806 phụ nữ sinh con bị dị tật trong khoảng từ năm 1997 đến 2006 và 849 phụ nữ sinh con khỏe mạnh.

Sau khi tính đến các yếu tố như chủng tộc, trình độ học vấn của mẹ và sử dụng vitamin, nhóm nghiên cứu kết luận rằng thai phụ phơi nhiễm nhiều nhất với ô nhiễm carbon monoxide do giao thông trong giai đoạn đầu thai kỳ tăng gấp gần 2 lần nguy cơ sinh con bị dị tật nứt đốt sống hoặc khuyết não so với thai phụ phơi nhiễm ở mức thấp nhất.

Tiếp xúc ô nhiễm không khí nitrogen oxide và nitrogen dioxide do giao thông cũng liên quan với tăng nguy cơ bị các dị tật này. Ví dụ, phụ nữ phơi nhiễm nhiều nhất với nitrogen oxide tăng gấp gần 3 lần nguy cơ sinh con bị khuyết não so với những người phơi nhiễm ít nhất.

Mặc dù nghiên cứu này phát hiện ra mối liên quan giữa ô nhiễm không khí do giao thông và các dị tật bẩm sinh nghiêm trọng song nó không chứng minh mối quan hệ nhân quả.

Nghiên cứu được đăng trực tuyến ngày 28/3 trên tờ American Journal of Epidemiology.

(Theo Dantri)

Mẹ đã biết gì về dị tật bẩm sinh? – Phần 2

(Webtretho) Hãy cùng tìm hiểu tiếp về hai dạng dị tật thường gặp ở trẻ là dị tật thoát vị, hội chứng Edwards và các cách giúp mẹ hạn chế dị tật cho thai nhi.

Phần 1: Tìm hiểu tổng quan về dị tật bẩm sinh và các loại dị tật về tim và hở môi - hàm ếch.

Dị tật thoát vị

Thoát vị là hiện tượng xảy ra khi một cơ quan lồi ra khỏi khoang chứa nó thông qua một lỗ hổng tự nhiên hay bất thường trong cơ thể và “cư trú” tại một khoang chứa khác. Với nhiều nguyên nhân và vị trí khác nhau, trẻ khi sinh ra có thể bị mắc phải các dị tật thoát vị như thoát vị bẹn, thoát vị bìu, thoát vị rốn, thoát vị cơ hoành... Chúng ảnh hưởng đến quá trình phát triển của cả cơ thể và gây khó khăn trong việc hoạt động ở bộ phận bị thoát vị. Trẻ sinh non có khả năng mắc phải các dị tật trên cao hơn, ngoài ra, khả năng mắc phải còn phụ thuộc vào yếu tố nhiễm sắc thể, di truyền hoặc từ các hành vi không lành mạnh của người mẹ.

Hiện tượng thoát vị cơ bản không gây đau. Tuy nhiên, nếu thoát vị sưng lên, chèn ép các cơ quan xung quanh, làm cho máu không lưu thông và được cung cấp đầy đủ thì sẽ gây đau. Đau sẽ không liên tục nhưng nếu kéo dài thì có thể gây tắc mạch máu hoặc bị nghẹt thoát vị, cơ quan bị thoát vị khó trở về được trạng thái ban đầu, ngoài ra còn gây biến chứng đến các cơ quan khác trong cơ thể. Điển hình là hiện tượng sa ruột, nếu để lâu thì rất dễ dẫn đến nguy cơ bị tắc ruột hoặc hoại tử tinh hoàn ở con trai.

(Ảnh: Internet)

Các dấu hiệu của nhóm dị tật thoát vị

Khi bị thoát vị, cơ thể thường xuất hiện u, cục hoặc sưng tấy lên (thường bị thoát vị ở rốn và bẹn). Nếu trẻ có những triệu chứng như khóc, ho, mệt mỏi, căng thẳng, hoặc bất cứ điều gì làm tăng áp lực vùng bụng thì rất có thể bị mắc chứng thoát vị bẹn.

Hội chứng Edwards (Rối loạn tam thể 18)

Đây là tình trạng đột biến xảy ra khi trẻ sơ sinh bị thừa một nhiễm sắc thể số 18 trong bộ gen, còn gọi là tam thể 18 hay Trisomy 18. Hội chứng này rất nguy hiểm, có thể gây chết thai hoặc khiến trẻ bị tử vong sớm sau khi sinh. Một số trẻ có thể sống hơn một tháng và rất ít trường hợp sống hơn một năm tuổi, tuy nhiên thường gặp phải rất nhiều vấn đề nghiêm trọng về sức khỏe.

Đa số trẻ bị hội chứng này thường rất yếu ớt và nhẹ cân, hình dáng đầu nhỏ và bất thường, phía sau ót thường nhô ra, ví trí hai tai bất thường. Trẻ còn có khả năng xuất hiện những dị tật khác như hở hàm ếch, dư thừa hoặc dính ngón, các dị tật về tim, dị tật thoát vị, có vấn đề về phổi và cơ hoành, gặp bất thường về hệ thống niệu sinh dục…

Tình trạng thừa nhiễm sắc thể thứ 18 gây ra hội chứng Edwards (Ảnh: Internet)

Ngoài những dị tật điển hình trên còn có rất nhiều những dị tật bẩm sinh khác có khả năng xảy ra trong thời kỳ mang thai như: phình đại tràng bẩm sinh, bàn chân khèo bẩm sinh, suy giảm thính lực bẩm sinh, hở thành bụng...

Phòng tránh các dị tật bẩm sinh cho thai nhi và trẻ sơ sinh như thế nào?

Không phải tất cả các dị tật bẩm sinh đều ngăn ngừa được, tuy nhiên bạn vẫn có thể làm giảm khả năng mắc phải ở thai nhi, tăng cơ hội phát triển khỏe mạnh cho con mình bằng cách khám sức khỏe định kỳ, nghe theo tư vấn sức khỏe, dinh dưỡng cho người chuẩn bị làm mẹ, có những thói quen, hành vi lành mạnh cho cơ thể ngay khi bạn có quyết định “Mình sẽ mang thai!”. Điều này rất quan trọng, do một số dị tật bẩm sinh xảy ra rất sớm trong thai kỳ, đôi khi sớm hơn cả việc bạn biết mình đã có thai.

Sau đây là một số bước bạn có thể áp dụng để chuẩn bị sẵn sàng cho một thai kỳ khỏe mạnh:

Đảm bảo chế độ dinh dưỡng hằng ngày

Việc đầu tiên bạn cần lưu tâm khi mang thai đó chính là cần đảm bảo nguồn dinh dưỡng cho cả bạn và bé. Cần cân bằng những dưỡng chất như sắt, chất xơ, các loại vitamin… Bạn cũng cần lưu ý vấn đề tiểu đường thai kỳ vì đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến thai nhi có khả năng mắc các dị tật bẩm sinh cao hơn bình thường.

  •   Bổ sung axit folic mỗi ngày: Axit folic là một dạng vitamin B mà phụ nữ cần bổ sung đầy đủ khoảng 400mcg (4mg) mỗi ngày, ít nhất là từ một tháng trước và trong suốt quá trình mang thai. Điều này giúp thai nhi giảm khả năng mắc phải các dị tật bẩm sinh về não và cột sống như nứt đốt sống, thiếu não.

(Ảnh: Internet)

  •   Không uống rượu bia và thuốc lá: Khi mang thai, bạn ăn gì, uống gì thậm chí là hít thở những gì thì thai nhi của bạn cũng sẽ gián tiếp hấp thụ những thứ đó. Các nhà nghiên cứu vẫn chưa biết việc uống vài ly rượu bia có gây hại cho thai nhi hay không, hay loại rượu nào là không an toàn với bà bầu. Tuy nhiên một khi bạn biết mình đang có thai, hãy dừng ngay việc uống rượu bia để tránh những nguy cơ như hiệu ứng có cồn ở bào thai (FASD), chậm phát triển về trí tuệ và thể chất, có dị tật về tim và khuôn mặt, gặp vấn đề về hành vi... Việc hút thuốc lá chủ động hay bị động của người mẹ cũng có thể khiến thai nhi gặp phải dị tật như sinh non, sứt môi, hở hàm ếch, thậm chí là tử vong. Một khi đã có ý định mang thai, bạn cần phải cai thuốc lá cũng như các chất gây nghiện khác càng sớm càng tốt, hoặc tìm cách làm trong lành không khí xung quanh để không bị khói thuốc tác động.
  •  Giữ vệ sinh và khám thai định kỳ: Điều này rất quan trọng để giúp bạn có một sức khỏe toàn diện, hạn chế những căn bệnh có thể ảnh hưởng đến thai nhi như: nhiễm trùng đường tiết niệu, viêm gan B, tiểu đường... Ngoài ra bác sỹ sẽ nắm bắt được tình hình phát triển và sức khỏe của cả mẹ và bé để can thiệp kịp thời nếu như có bất cứ vấn đề gì phát sinh. Trong giai đoạn này, bạn sẽ được biết đến hai bước chẩn đoán sàng lọc quan trọng để phòng ngừa các dị tật bẩm sinh ở trẻ, đó là: sàng lọc trước sinh và sàng lọc sau sinh.
  • Tiêm phòng đầy đủ: Trước khi mang thai, bạn cần tìm hiểu và hỏi ý kiến bác sỹ chuyên khoa về những điều cần làm, trong đó có việc tiêm phòng. Bạn cần tiêm ngừa những bệnh như: rubella, thủy đậu, viêm gan B… Đa số đều chỉ định tránh có thai trong vòng 3 tháng sau khi tiêm. Bạn cũng cần tìm hiểu và tư vấn thêm về những cách chăm sóc đơn giản cho bản thân khi mang thai để chủ động hơn trong việc đảm bảo dinh dưỡng cũng như bảo vệ sức khỏe.

Để hiểu rõ hơn về các hai bước sàng lọc quan trọng nhằm phát hiện kịp thời các dị tật bẩm sinh, mời bạn tham khảo tiếp bài viết “Tìm hiểu về các bước chẩn đoán sàng lọc” vào kỳ sau.

Mẹ đã biết gì về dị tật bẩm sinh? – Phần 1

(Webtretho) Trước và trong quá trình mang thai, việc tìm hiểu sức khỏe của bố, mẹ và thai nhi rất quan trọng. Các xét nghiệm sẽ giúp thai phụ biết được tình trạng sức khỏe của thai nhi và phần nào yên tâm về việc liệu con có gặp phải các dạng dị tật bẩm sinh hay không. Vậy dị tật bẩm sinh là gì, các triệu chứng biểu hiện ra sao và chúng ảnh hưởng thế nào đến thai nhi và trẻ sơ sinh?

Dị tật bẩm sinh là gì?

Dị tật bẩm sinh (hay khuyết tật bẩm sinh) là các hiện tượng của thai nhi hay khi trẻ sinh ra có dấu hiệu bất thường về chức năng, cấu trúc cơ thể hay chuyển hóa (như hở hàm ếch, tay dính ngón, bại não, hội chứng Down...), ảnh hưởng đến quá trình phát triển thể chất hay trí tuệ của trẻ, cần được can thiệp chữa trị y tế hoặc phẫu thuật. Có hơn 4.000 loại dị tật bẩm sinh mà thai nhi và trẻ sơ sinh có thể gặp, gây ra bởi các yếu tố di truyền, môi trường, và cả không rõ nguyên nhân.

Hiện tượng bất thường về cấu trúc là một phần bộ phận ở cơ thể trẻ bị khiếm khuyết, hoặc cấu tạo bị sai lệch, điển hình là các loại dị tật về tim. Bất thường về trao đổi chất là trẻ gặp vấn đề bẩm sinh về quá trình hoạt động hóa học của cơ thể như trẻ bị suy tuyến giáp...

Một số dạng dị tật bẩm sinh ở trẻ (Ảnh: Internet)

Nguyên nhân gây dị tật bẩm sinh ở thai nhi và trẻ nhỏ

Nếu chẳng may một đứa trẻ bị dị tật bẩm sinh, dị tật này thường hình thành cùng trong khoảng thời gian hình thành các cơ quan cơ thể bé - trong 3 tháng đầu của thai kỳ. Vậy nên đây là giai đoạn rất quan trọng trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, cũng một số dị tật xảy ra trong 6 tháng cuối của thai kỳ và sau đó, khi các mô và các cơ quan đang tiếp tục hình thành và phát triển.

Trong thực tế có khoảng 60% trường hợp dị tật bẩm sinh không rõ nguyên nhân chính, trẻ có thể bị dị tật dù cha mẹ hoàn toàn khỏe mạnh, thậm chí dù người mẹ đã thực hiện mọi khuyến cáo của bác sĩ nhằm dưỡng thai tốt. Tuy vậy, yếu tố di truyền, yếu tố môi trường, hành vi của thai phụ trước và trong quá trình mang thai có ảnh hưởng khá lớn đối với các loại dị tật này. Một số nguyên nhân có thể dẫn đến dị tật bẩm sinh được liệt kê như sau:

  • Người mẹ hút thuốc, uống rượu trong quá trình mang thai;
  • Thai phụ sử dụng những loại thuốc có khả năng gây ra dị tật ở thai nhi, ví dụ thuốc isotretinoin - một loại điều trị trứng cá nặng. Vì thế thai phụ luôn cần phải dùng thuốc có toa và hỏi ý kiến của bác sỹ về các loại thuốc trước khi sử dụng;
  • Thai phụ có tiền sử về bệnh tiểu đường, béo phì…
  • Thai phụ bị cảm cúm nặng, đặc biệt là bị nhiễm Rubella trong 3 tháng đầu của thai kỳ;
  • Trong gia đình có thành viên bị dị tật bẩm sinh;
  • Phụ nữ trên 35 tuổi mang thai có khả năng khiến thai nhi mang dị tật bẩm sinh cao.

Các loại dị tật bẩm sinh thường gặp

Dị tật về tim: Dị tật tim bẩm sinh là một trong những nỗi ám ảnh của thai phụ vì sự nguy hiểm và khó chẩn đoán của chúng. Theo thống kê tại bệnh viện Phụ sản Từ Dũ, Tp.HCM, các trường hợp mang thai đầu tiên mang dị tật tim bẩm sinh chiếm tỷ lệ 0,8%, và 2- 6% ở các trường hợp mang thai lần 2; nếu trong gia đình đã có 2 người dị tật tim bẩm sinh thì nguy cơ di truyển sẽ khiến trẻ ra đời có khả năng mắc bệnh là 20 – 30%. Các dị tật tim bẩm sinh ở trẻ em có thể đơn giản hoặc phức tạp; các loại dị tật tim bẩm sinh khác nhau sẽ ảnh hưởng sự phát triển và sức khỏe của trẻ khác nhau, nhưng nhìn chung đều gây ra tình trạng không bơm đầy đủ máu cho cơ thể.

Dị tật về tim khiến trẻ gặp khó khăn trong hô hấp và ảnh hưởng đến sự phát triển (Ảnh: Internet)

Ở trẻ sơ sinh, dấu hiện đầu tiên để bác sỹ có thể chuẩn đoán về dị tật tim đó chính là âm thanh phát ra từ hoạt động co bóp của tim qua ống nghe khi tim bơm máu gặp trở ngại, từ đó sẽ có những bước kiểm tra cụ thể hơn để chuẩn đoán dị tật. Ngoài ra, bạn cần lưu ý những dấu hiệu sau: trẻ hay ho, thở khò khè và khó khăn (thở nhanh, lồng ngực rút lõm khi hít vào), hay bị viêm phổi, làn da tím xanh, nhợt nhạt, cơ thể có nhiệt độ thấp và vã mồ hôi. trẻ cũng thường thở dốc, đau ngực, mệt mỏi, kém ăn thường xuyên, hay chóng mặt hoặc ngất xỉu, da có màu tím xanh và huyết áp bất thường…

Dị tật tim được chia làm 3 nhóm sau:

  • Nhóm tim bẩm sinh không có luồng thông: trong nhóm này thường trẻ không bị tím, lượng máu lên phổi bình thường hoặc giảm, bao gồm các dị tật: hẹp động mạch phổi, hẹp động mạch chủ, hẹp eo động mạch chủ...
  • Nhóm tim bẩm sinh có luồng thông từ trái sang phải: có lỗ thông đưa máu đi từ các buồng tim bên trái sang tim bên phải.
  • Nhóm tim bẩm sinh có luồng thông từ phải sang trái: có lỗ thông đưa máu đi từ các buồng tim bên phải sang tim bên trái, thường gây ra triệu chứng tím và lưu lượng máu đi qua phổi có thể tăng (tăng tuần hoàn phổi) hay giảm (giảm tuần hoàn phổi). Các dạng dị tật: tim một thất, tứ chứng Fallot, teo van ba lá, teo van động mạch phổi…

Dị tật sứt môi và hở vòm miệng: Sứt môi là dị hình bẩm sinh có một khe nứt ở một bên hay cả hai bên đường giữa môi trên. Hở hàm ếch là khe hở giữa vòm miệng và khoang mũi; một số trẻ mắc bệnh này hở cả bộ phận trước và bộ phận phía sau của vòm miệng, trong khi các trẻ khác chỉ bị hở một phần.

Những dị tật này có thể xảy ra khá sớm trong thời kỳ mang thai: trong quá trình hình thành và phát triển của thai nhi, các mô tham gia cấu tạo phần môi và vòm miệng đã không liên kết liền lạc, hoàn chỉnh được, dẫn đến những khiếm khuyết về hình dạng tạo nên dị tật sứt môi hoặc hở hàm ếch. Chúng có thể xảy ra ở một bên hoặc cả hai bên miệng của trẻ. Dị tật này cũng có khả năng di truyền, nếu bé đầu của bạn đã bị thì bé thứ hai cũng có khả năng cao hơn.

(Ảnh: Internet)

Thường có 3 dạng khác nhau của sứt môi và hở hàm ếch:

  • Sứt môi nhưng không hở hàm ếch;
  • Hở hàm ếch nhưng không sứt môi;
  • Sứt môi và hở hàm ếch.

Các dị tật này liên quan đến khiếm khuyết của hình thể nên dễ nhận biết sau khi sinh, hay qua siêu âm, chuẩn đoán trước khi sinh. Và do cấu tạo phần môi và khoang miệng không được hoàn chỉnh nên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng ăn uống của trẻ. Trẻ có thể bị nhiễm trùng tai, điếc, khiếm khuyết khả năng nói, vị trí mọc răng lộn xộn… những trường hợp này thường phải có sự can thiệp chỉnh hình bằng phẫu thuật để đảm bảo cho trẻ ăn uống được và cải thiện thẩm mỹ.

Mời bạn đón đọc bài tiếp theo với nội dung giới thiệu qua về dị tật thoát vị, hội chứng Edwards và cách phòng tránh dị tật bẩm sinh cho trẻ sơ sinh.

 
 
 

10 cách phòng tránh dị tật thai nhi trước và trong thai kỳ

(Webtretho) Sức khoẻ của một đứa trẻ khi ra đời hoàn toàn phụ thuộc vào sự chuẩn bị về thể chất và sức khoẻ của người mẹ trước khi sinh, và thậm chí là trước cả khi thụ thai. Dưới đây là 10 cách để bạn phòng tránh nguy cơ dị tật bẩm sinh cho em bé tương lai của mình trước và trong khi mang thai.

Uống bổ sung acid folic sớm

Mọi phụ nữ trong độ tuổi sinh nở cần uống bổ sung acid folic ít nhất 3 tháng trước khi mang thai. Thiếu hụt folate là nguyên nhân gây ra một loạt các dị tật bẩm sinh và dị tật ống thần kinh (phổ biến nhất trong số này là dị tật nứt đốt sống) ở thai nhi. Những dị tật này xuất hiện rất sớm trong thai kỳ, thậm chí trước khi người mẹ có thể nhận biết mình mang thai để bổ sung folate kịp thời. Ngay cả lần khám thai đầu tiên (thường vào khoảng tuần thứ 10) cũng đã là quá trễ để cứu vãn tình hình.

Khám bệnh trước khi thụ thai

Các bác sĩ cũng khuyên chị em phụ nữ trong độ tuổi sinh sản khi có ý định mang thai nên đi khám tiền thai kỳ do việc chăm sóc sức khoẻ của bà mẹ trước khi mang thai ngày càng chứng minh được tầm quan trọng đối với sức khoẻ của cả mẹ và con. Việc này cũng đặc biệt có ý nghĩa với những bà mẹ có bệnh mãn tính trước đó.

Bạn cần duy trì lịch thăm khám đều đặn ngay khi có ý định mang thai và trong suốt thai kỳ. Ảnh: Corbis.

Không uống rượu

Một dị tật bẩm sinh hoàn toàn có thể phòng tránh được là hội chứng thai nhi nhiễm rượu (hay hội chứng thai nghiện rượu). Tác hại của rượu đối với thai nhi ở mức độ nhẹ có thể gây các vấn đề về trí tuệ và hành vi, nặng hơn có thể gây dị tật nghiêm trọng và gây chết non. Cho đến nay, không có giới hạn tiêu thụ chất cồn nào được cho là an toàn đối với bà mẹ mang thai, vì vậy tốt nhất bạn nên tránh hoàn toàn rượu và thức uống chứa cồn khi mang thai.

Ngừng hút thuốc chủ động và thụ động

Theo tổ chức March and Dimes, nếu mọi phụ nữ mang thai đều được cách ly với thuốc lá (dù là hút thuốc chủ động hay thụ động), tỷ lệ sảy thai sẽ giảm đi 5%, tỷ lệ sinh con nhẹ cân giảm 20%, tỷ lệ sinh non giảm 8%, tỷ lệ thai chết lưu giảm 11% và tỷ lệ tử vong sơ sinh giảm 5%.

Hãy tránh xa khói thuốc (dù là chủ động hay bị động). Ảnh: Inmagine.

Tránh tiếp xúc các độc tố từ môi trường

Các hoá chất từ lâu đã được nghi là nguyên nhân gây dị tật bẩm sinh ở thai nhi. Vì vậy, để đảm bảo tương lai của con trẻ, bạn nên tránh tối đa việc tiếp xúc với hoá chất, bao gồm cả các hoá chất dùng trong sinh hoạt hàng ngày. Nếu bạn làm việc trong môi trường buộc phải tiếp xúc hoá chất như chất tẩy rửa - vệ sinh, trong các xí nghiệp, nhà máy hoặc các studio, hãy luôn sử dụng găng tay, khẩu trang hoặc mặt nạ phòng độc và có hệ thống thông khí đảm bảo. Những bà mẹ làm việc trong môi trường y tế cũng cần có sự chăm sóc đặc biệt do thường xuyên phải tiếp xúc với hoá chất khử trùng.

Ăn uống lành mạnh

Dinh dưỡng tốt là một trong các yếu tố quyết định để có một thai kỳ khoẻ mạnh. Bạn có thể nghiên cứu về chế độ dinh dưỡng chuyên biệt dành cho bà mẹ mang thai, nhưng lời khuyên chung là bạn nên ăn đa dạng các loại thực phẩm lành mạnh và hạn chế thực phẩm chế biến công nghiệp. Ngoài ra, bà mẹ mang thai cũng cần uống thêm thuốc bổ sung vitamin dành cho bà bầu.

Ăn thực phẩm tươi và đa dạng màu sắc là cách tự nhiên nhất để đảm bảo dinh dưỡng thai kỳ. Ảnh: Inmagine.

Tầm soát HPV

Virus HPV mặc dù không gây dị tật bẩm sinh thai nhi nhưng lại liên quan đến khả năng tăng nguy cơ sinh non khi mà não và phổi của thai nhi chưa phát triển hoàn thiện, và hậu quả là trẻ sinh ra có thể bị suy não và phổi nghiêm trọng. Ước đoán có đến 50% đàn ông và phụ nữ có sinh hoạt tình dục đều từng bị nhiễm HPV sinh dục ở một thời điểm nào đó trong đời.

Không tuỳ tiện dùng thuốc

Khi mang thai, mọi loại thuốc bạn dùng đều phải được bác sĩ sản phụ khoa và chuyên khoa kê đơn cẩn thận (bạn cần cho bác sĩ chuyên khoa biết mình đang mang thai để được kê đơn phù hợp). Ngay cả với các loại thuốc chữa các bệnh thông thường không cần kê đơn, bạn cũng cần được bác sĩ cho phép mới được sử dụng để không gây hại cho thai nhi.

Giám định di truyền

Giám định di truyền giúp bạn đánh giá được nguy cơ con mắc các dị tật bẩm sinh mang tính di truyền. Ảnh: Corbis.

Khó có thể xác định nguyên nhân của hầu hết các dị tật bẩm sinh, nhưng nếu gia đình của vợ chồng bạn từng có lịch sử dị tật, xét nghiệm chẩn đoán di truyền giúp phân tích nguy cơ dị tật có thể là một xét nghiệm hữu ích cho bạn. Kết quả giám định di truyền có thể giúp các bác sĩ tư vấn về nguy cơ dị tật cho vợ chồng bạn để đưa ra quyết định mang thai và sinh con.

Thư giãn

Nghiên cứu cho thấy người mẹ bị căng thẳng nghiêm trọng trong khi mang thai dễ sinh con bị dị tật hơn. Stress cũng liên quan đến tăng nguy cơ sảy thai, sinh non và vô sinh. Có rất nhiều cách bạn giảm stress, chẳng hạn như tập thể dục và yoga thường xuyên.

Bổ sung axit folic hằng ngày không làm tăng nguy cơ ung thư

 Các nhà khoa học tại Mỹ nhận thấy bổ sung axit folic hằng ngày trong thời gian ngắn không làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư, theo Reuters.

Mỹ và Canada đề nghị người dân bổ sung axit folic từ năm 1998 sau khi nhận thấy thai phụ không có đủ chất này thì trẻ bị dị tật bẩm sinh ở não và cột sống.

Tuy vậy, các nước Tây Âu lại lo ngại rằng bổ sung axit folic làm tăng nguy cơ bị bệnh ung thư do vai trò của nó đối với sự phát triển của tế bào. Các tế bào, bao gồm cả tế bào ung thư, đều cần folate - một dạng tự nhiên của axit folic - để phát triển và phân chia.

Bo-sung-axit-folic
Cần cung cấp đủ axit folic cho thai phụ - Ảnh: Shutterstock

Các nhà khoa học phân tích dữ liệu của 13 cuộc thử nghiệm độc lập. 50.000 người được ngẫu nhiên dùng axit folic hằng ngày hoặc giả dược (thuốc giống như thuốc thật nhưng không có tính chất dược lý). Sau đó, các nhà khoa học theo dõi xem các đối tượng có bị bệnh ung thư hay không trong khoảng thời gian trung bình là 5 năm.

Theo đó, không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ mắc bệnh ung thư ở hai nhóm đối tượng.

Không có ghi nhận nào cho thấy đối tượng ở nhóm dùng axit folic bị tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư ở vú, đại tràng, tuyến tiền liệt hoặc phổi.

Hầu hết các cuộc thử nghiệm đều cho đối tượng dùng axit folic ở liều lượng từ 0,5 đến 5 mg mỗi ngày. Ngay cả trong một cuộc thử nghiệm có liều dùng cao hơn, 40 mg mỗi ngày, cũng không có sự khác biệt khi chẩn đoán bệnh ung thư.

Axit folic có trong rau bina, măng tây, rau diếp và các loại rau xanh khác. Liều lượng axit folic khuyến cáo hằng ngày là 1 mg.

Nghiên cứu cho thấy bổ sung axit folic trong một thời gian ngắn (5 năm) thì không có hại hay có lợi đáng kể cho sức khỏe.

Nghiên cứu thực hiện tại Trường Dược Geisel ở Dartmouth, Lebanon (Mỹ) và được đăng tải trên The Lancet.

(Theo Thanhnien)

Công việc của bố có thể gây dị tật bẩm sinh cho con

Theo một nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học Mỹ, một số loại công việc của người bố có thể sẽ dẫn tới tình trạng dị tật bẩm sinh ở đứa trẻ.

Nguy cơ này được nhìn thấy rõ nhất trong một số loại nghề nghiệp như: nghệ sĩ, nhiếp ảnh gia, thợ hớt tóc, nhà toán học, nhân viên văn phòng.

Các nhà nghiên cứu tại trường ĐH Nam Calorina đã phân tích bản dữ liệu quốc gia của khoảng 1.000 người đàn ông có 1 đứa con bị ít nhất là một dị tật bẩm sinh, trong suốt khoảng thời gian từ năm 1997 đến 2004.

Bên cạnh đó dữ liệu cũng so sánh với khoảng 4.000 ông bố với những đứa con hoàn toàn khỏe mạnh.

Các nhà nghiên cứu đã sử dụng phương pháp phân tích toán học để xếp loại các công việc vào 63 nhóm có nguy cơ nhiễm phải các loại hóa chất hay các mối nguy hiểm tiềm ẩn khác.

Kết quả cho thấy: hơn 2/3 các công việc của người bố đều có gắn liền với nguy cơ dị tật bẩm sinh ở đứa trẻ; và chỉ có 1/3 các công việc là hoàn toàn không liên quan tới bất kỳ nguy cơ nào.

Nhóm nghiên cứu nhận thấy: tình trạng tiếp xúc với các loại hóa chất và những yếu tố nguy hại tiềm ẩn khác trong công việc của họ chính là nguyên do dẫn tới tình trạng này.

Cụ thể, người ta đã xếp loại ra một loạt các nguy cơ dị tật bẩm sinh của con khi bố làm một số nghề nghiệp như sau:

- Nghệ sĩ (miệng, mắt, tai, đường ruột, tim mạch, tứ chi)

- Nhiếp ảnh gia và những người xử lí ảnh (đục thủy tinh thể, tăng nhãn áp, không có hoặc thiếu mô mắt)

- Tài xế (không có hoặc thiếu mô mắt, tăng nhãn áp)

- Công nhân xây dựng, người đào xới (những bất thường về đường ruột).

Theo TS Andrew Olshan thì một số công việc thậm chí còn gắn liền với nhiều hơn một dị tật bẩm sinh. Ví dụ như trường hợp của nhiếp ảnh gia hay những người xử lí về hình ảnh thì sẽ gắn liền tới 3 dị tật bẩm sinh về mắt ở đứa trẻ. Trong khi với công nhân xây dựng và những người đào xới thì liên quan tới 3 khiếm khuyết về hệ thống tiêu hóa.

Thông tin trên chắc hẳn sẽ mang lại không ít điều bổ ích cho những người đang sắp sửa làm bố.

(Theo VTC)

Phát hiện virus gây ung thư mới

Mới đây các nhà khoa học tại Phòng thí nghiệm Phát triển Di truyền học thuộc ĐH Nam California (Mỹ) đã phát hiện virus Cytomegalo chính là thủ phạm gây ung thư tuyến nước bọt phổ biến nhất.

Nghiên cứu vừa được công bố trực tuyến trên tạp chí Experimental and Molecular Pathology hồi cuối tuần trước gồm một loạt các nghiên cứu của các nhà khoa học tại ĐH Nam California (USC) cùng chứng minh rằng virus Cytomegalo (CMV) có thể kích hoạt ung thư trong các tế bào khoẻ mạnh hoặc tấn công vào điểm yếu của các tế bào đột biến để hình thành khối u.

Em bé trong bụng mẹ bị nhiễm virus Cytomegalo sẽ gây ra dị tật bẩm sinh (Ảnh minh hoạ)

Michael Melnick, GS phát triển di truyền học tại USC, người dẫn đầu nhóm nghiên cứu kết luận CMV là một virus gây ung thư sau khi nghiên cứu khối u tuyến nước bọt ở cả người và chuột sơ sinh.

Việc phân loại CMV rất quan trọng đối với sức khoẻ. Tỷ lệ nhiễm loại virus này ở người rất cao, có thể gây bệnh nặng và tử vong ở những bệnh nhân bị tổn thương hệ miễn dịch và gây dị tật bẩm sinh khi phụ nữ mang thai tiếp xúc phải. Đối với người có hệ miễn dịch tốt, CMV sẽ không hoạt động mà cư trú trong nước bọt để đợi thời cơ.

Nghiên cứu không chỉ phát hiện ra mối liên hệ giữa CMV và bệnh ung thư biểu mô, loại phổ biến nhất của ung thư tuyến nước bọt mà còn xác định được cách thức gây bệnh của virus.

Ung thư tuyến nước bọt thường chỉ được phát hiện ở giai đoạn cuối. Việc tiến hành phẫu thuật sẽ ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh vì khu vực ung thư gần mặt.

Kết quả nghiên cứu mang lại hy vọng cho phương pháp phòng ngừa và điều trị mới hiệu quả giống như biện pháp giảm thiểu virus u nhú (HPV) ở người sau khi xác định virus này liên quan đến ung thư tử cung.

Meo.vn (Theo Baodatviet)

Càng stress, càng khó có thai

Có nhiều người cả chục lần kích trứng, 4 - 5 lần thụ tinh ống nghiệm, thậm chí ra cả nước ngoài điều trị vẫn không có con.

GS.TS Nguyễn Đức Vy, nguyên giám đốc Bệnh viện Phụ sản TƯ, chủ tịch Hội Sản phụ khoa Việt Nam cho biết, quá trình điều trị vô sinh thường kéo dài, tốn kém và không ít cặp vợ chồng đã tan vỡ.

Khó nhất là không tìm ra nguyên nhân

PGS.TS Nguyễn Viết Tiến, thứ trưởng Bộ Y tế, giám đốc Bệnh viện Phụ sản TƯ cho biết, theo thông kê của Bộ Y tế, số  người vô sinh ở Việt Nam ở mức 8% và 10 - 15% cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ. Mỗi ngày Trung tâm Hỗ trợ sinh sản, Bệnh viện Phụ sản TƯ tiếp nhận khám, tư vấn và điều trị cho khoảng trên 100 ca vô sinh.

Nguyên nhân vô sinh cũng có rất nhiều và phức tạp. Đối với người chồng thường do chất lượng và số lượng tinh trùng không tốt. Về phía người vợ có thể do dị tật bẩm sinh ở tuyến sinh dục. Có khi do hoạt động không bình thường của hệ thống nội tiết trong cơ thể, đặc biệt là các tuyến nội tiết trên não và ở buồng trứng. Có khi do các bệnh nội khoa, đặc biệt là ở các loại viêm nhiễm đường sinh dục từ ngoài vào trong có thể gây tắc vòi trứng, dính tử cung, chít hẹp cổ tử cung, thay đổi môi trường âm đạo... làm cho không thể thụ thai.

Theo GS.TS Nguyễn Đức Vy, điều trị vô sinh tùy theo nguyên nhân để giải quyết bằng nội khoa hay phẫu thuật. Nếu đã thực hiện phương pháp này mà không thành công thì cần tiếp tục chuyển qua phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm.

Điều trị vô sinh bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm thường cho kết quả cao (30 - 35%), tuy nhiên, để sinh nở "mẹ tròn con vuông" chỉ khoảng 20 - 25%. Đặc biệt, chi phí cho mỗi lần sinh con bằng thụ tinh trong ống nghiệm có thể rơi vào khoảng từ 40 - 100 triệu đồng, nhiều trường hợp chi phí cao hơn gấp nhiều lần tuỳ vào thể trạng bệnh nhân.

Càng sốt ruột, càng khó mang thai

Các chuyên gia cảnh báo, điều khó khăn nhất trong điều trị vô sinh là tâm lý của cả bệnh nhân và bác sĩ. Người đi chữa vô sinh thường rất sốt ruột. Việc sốt ruột, điều trị một lúc nhiều thầy, nhiều thuốc cả Đông và Tây y có thể gây ra những biến chứng nguy hiểm bởi sự tương tác thuốc. Đặc biệt, yếu tố tâm lý rất quan trọng trong điều trị vô sinh.

Ở một phụ nữ bình thường nếu stress diễn ra thường xuyên cũng rất khó thụ thai, còn ở phụ nữ có "vấn đề về sinh nở" lại càng khó khăn hơn nếu họ không tự vượt qua được những áp lực từ bản thân, gia đình, xã hội... thì khó mà có kết quả được.

Meo.vn (Theo Bee)

Khi nào thì bạn phải sinh mổ?

Theo thống kê, gần 1/3 số trẻ em trên toàn thế giới được sinh ra bằng phương pháp đẻ mổ.

Tại sao bạn phải sinh mổ?

Thông thường, người ta phải dùng đến phương pháp sinh mổ do gặp một số vấn đề nguy hiểm mà nếu sinh thường sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến mẹ và bé. Trong một số trường hợp khác phụ nữ sinh mổ do quan niệm thẩm mỹ và để đỡ đau đớn. Đặc biệt có những người còn vì chọn ngày sinh con nên phải mổ đẻ… Dù vậy, trong hầu hết các trường hợp được yêu cầu sinh mổ đều có lý do cấp bách.

Dưới đây là 10 lý do bác sĩ sẽ chỉ định bạn phải sinh mổ:

Mang thai nhiều

Khi bạn mang thai đôi hoặc ba, thông thường các bác sĩ sẽ chỉ định bạn sinh mổ để được an toàn cho cả mẹ và các bé. Vì nếu bạn sinh thường sẽ mất rất nhiều sức và ảnh hưởng đến thai nhi trong bụng.

Mang thai dị tật bẩm sinh

Trẻ sơ sinh dị tật bẩm sinh sẽ được an toàn hơn khi sử dụng phương pháp mổ sinh.


Trong nhiều trường hợp nguy hiểm, bạn sẽ bị chỉ định sinh mổ. (Ảnh minh họa)

Lần trước đã mổ sinh

Mặc dù phụ nữ vẫn hoàn toàn có thể sinh thường nếu lần đầu đã mổ sinh nhưng trong hầu hết các trường hợp đều không nên. Vì vậy, nếu bạn đã một lần mổ sinh, hãy trao đổi trực tiếp với bác sĩ về phương pháp sinh cho lần hai này.

Mẹ quá yếu

Khi thai phụ quá yếu, không thể thực hiện được những cơn rặn đẻ, các bác sĩ sẽ phải yêu cầu dùng đến phương pháp mổ sinh.

Thai nhi gặp vấn đề

Nếu em bé không nhận đủ oxy hoặc nhịp tim bất thường, các bác sĩ sẽ phải đề nghị cho bạn sinh mổ để em bé chào đời ngay lập tức.

Gặp vấn đề về nhau thai

Khi nhau thai chặn đường đi ra của em bé; nhau thai bị đứt, gãy (nhau tiền đạo) hoặc nhau thai bị tách biệt khỏi thành tử cung (nhau thai tách rời), bạn sẽ được chỉ định mổ sinh. Những trường hợp này có thể gây chảy máu âm đạo nặng, trong trường hợp nghiêm trọng sẽ gây tử vong mẹ va bé.

Thai ngôi mông

Thai ngôi mông là khi gần đến tháng sinh nở mà thai nhi vẫn không chịu quay đầu xuống. Trong trường hợp này, bạn sẽ không thể chờ đến khi vỡ ối hoặc chuyển dạ như những trường hợp thai ngôi đầu khác mà sẽ phải sinh mổ trước đó để tránh nguy hiểm cho em bé thai ngôi mông do vấn đề về rau khi vỡ ối.


Để an toàn cho cả mẹ và bé trong trường hợp có vấn đề về nhau thai,
bạn nên sinh mổ. (Ảnh minh họa)

Tha dây rốn

Khi dây rốn bị sa xuống qua âm đạo trước khi em bé chào đời – cắt đứt nguồn cung cấp oxy cho em bé -  bạn sẽ phải mổ sinh.

An toàn cho mẹ

Để an toàn cho các mẹ bầu bị tiểu đường, tiền sản giật (cao huyết áp khi mang thai) hoặc những vấn đề nguy hiểm khác, bác sĩ sẽ chỉ định sinh mổ. Đối với các mẹ bị nhiễm trùng chẳng hạn như nhiễm HIV, herpes sinh dục…, sử dụng phương pháp sinh mổ sẽ giảm nguy cơ truyền nhiễm cho bé.

Thai nhi quá to

Đôi khi do cổ tử cung giãn nở không đầy đủ hoặc đầu em bé quá lớn khiến  bạn không thể sinh thường. Lúc này, sinh mổ là phương pháp an toàn cho bé và cũng giúp mẹ đỡ mất sức hơn.

Chú ý: Lựa chọn phương pháp sinh mổ hay sinh thường là vấn đề khó khăn với nhiều thai phụ. Trong trường hợp cấp thiết phải sinh mổ, bạn nên chuẩn bị sẵn sàng tâm lý còn trong trường hợp thai của bạn không có vấn đề gì nghiêm trọng mà bạn vẫn muốn sinh mổ, bạn nên sinh con ở tuần thứ 39 – khi em bé đã đủ cứng cáp nhất. Tuy vậy, chúng tôi cũng nhắc nhở bạn rằng sinh mổ có thể sẽ khiến bạn đau nhức là lâu lành vết thương hơn so với sinh thường. Nếu bạn đang cân nhắc nên chọn phương pháp sinh nào, hãy liên hệ với bác sĩ để nhận được lời khuyên hợp lí.

Meo.vn (Theo Eva)

Bệnh rubella – Nguy hiểm cho phụ nữ mang thai

Trong 10 tháng đầu năm nay, rất nhiều thai phụ nhiễm rubella và đặc biệt đã có hàng trăm thai phụ sinh con ra bị những dị tật vì hậu quả của nhiễm rubella trong thai kỳ.

Ảnh minh họa: Nguồn: Vnexpress.net

Theo thống kê của Trung tâm chẩn đoán trước sinh - Bệnh viện Phụ sản Trung ương, trong vòng 10 tháng đầu năm 2011, Trung tâm đã tiếp nhận hơn 2.300 trường hợp mắc rubella đến hội chẩn. Độ tuổi của các thai phụ thường gặp nhất là từ 20-30 tuổi. Trong đó, các thai phụ đến từ Hà Nội nhiều nhất (558 trường hợp), tiếp đó là các tỉnh như Hải Dương, Hưng Yên, Phú Thọ, Nam Định, Quảng Ninh…

Cũng trong thời gian trên, khoa sơ sinh của Bệnh viện đã tiếp nhận 85 trẻ sơ sinh bị mắc rubella bẩm sinh, trong đó có 77 trẻ còn sống, 8 trẻ tử vong. Nguyên nhân là do có nhiều trường hợp thai phụ không chú ý đến biểu hiện sốt và biểu hiện phát ban, nhầm với các bệnh khác như dị ứng, nổi mẩn do trời nóng…

PGS.TS. Lê Anh Tuấn, Phó Giám đốc Bệnh viện phụ sản Trung ương cho biết, Rubella không đáng lo ngại ở những đối tượng bình thường nhưng lại đặc biệt nguy hiểm đối với phụ nữ mang thai, nhất là trong 3 tháng đầu của thai kỳ vì có thể gây sinh non, sảy thai, thai chết lưu, suy dinh dưỡng bào thai và đặc biệt là hội chứng Rubella bẩm sinh. Trẻ bị nhiễm Rubella trước khi sinh có nguy cơ bị một hoặc nhiều dị tật, bệnh lý bẩm sinh như: hở hẹp van tim, tồn tại ống động mạch, đục thủy tinh thể, điếc, các dị tật về xương dài, bại não, dị dạng ở não, phổi, cơ khớp, mắt, chậm phát triển về tâm thần, thể lực, có vấn đề ở gan, lá lách…

Ông Nguyễn Viết Tiến, Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương cho hay, trước đây, thỉnh thoảng có một số trường hợp phụ nữ trong thời kỳ mang thai nhiễm rubella, nhưng những năm gần đây số lượng thai phụ nhiễm rubella đã tăng lên nhiều. Rubella không phải là một bệnh lý quá mới mẻ nhưng chúng ta vẫn còn gặp nhiều lúng túng trong theo dõi, xử lý, quản lý đối với những phụ nữ dính rubella trong thai kỳ, ông Tiến phân tích.

Mặt khác, do những hạn chế trong tiếp cận thông tin của nhiều sản phụ đã dẫn tới việc đình chỉ thai ngoài ý muốn. Chẳng hạn như trong năm 2011, cao điểm của dịch rubella là từ tháng 1 đến tháng 7 nhưng cho đến nay vẫn có nhiều thai phụ phải đình chỉ thai do nhiễm rubella. Nguyên nhân của tình trạng này là do nhiều người lo lắng đi tiêm vắc – xin nhưng khi tiêm về có thai ngay hoặc thậm chí có thai rồi không biết lại đi tiêm vắc – xin. Trong khi khuyến cáo là khi đã tiêm vắc - xin thì tối thiểu là sau 1 tháng mới được có thai. Vì vậy, theo khuyến cáo của các chuyên gia, việc các bà bầu nắm vững thông tin, rõ ràng và đầy đủ nhằm phát hiện sớm và kịp thời các triệu chứng của nhiễm virus rubella, cũng như cách phòng tránh là vô cùng cần thiết.

Hiện nay, tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương đã được chuyển giao kỹ thuật chọc ối để chẩn đoán thai nhi nhiễm Rubella, phương pháp này cho kết quả chính xác đến 95%.

 

Meo.vn (Theo ĐCSVN)