Lưu trữ cho từ khóa: cam thảo nam

Cốt khí củ – Khu phong trừ thấp

Cốt khí củ còn gọi là hổ trượng, điền thất, hoạt huyết đan, nam hoàng cầm. Bộ phận dùng làm thuốc là rễ, củ. Thu hái củ quanh năm, nhưng tốt nhất vào mùa thu (tháng 8, 9)… Theo Đông y, cốt khí củ vị ngọt đắng, tính mát, có tác dụng khu phong, trừ thấp, hoạt huyết thông kinh, giảm đau, giải độc, lợi tiểu. Chữa phong thấp tê bại, đau nhức gân xương; ứ huyết do ngã, chấn thương, kinh nguyệt bế tắc gây đau đớn, sau khi đẻ huyết hôi bị tích lại gây bụng trướng, đái dắt, đái buốt, đái ra máu. Dùng ngoài trị mụn nhọt, lở ngứa, làm thuốc cầm máu. Liều dùng: 8 - 12g, dạng thuốc sắc, thuốc bột, rượu.

Một số cách dùng cốt khí củ làm thuốc:

Chữa phong thấp, đau nhức xương

- Cốt khí củ 12g, đơn gối hạc 12g, cỏ xước 8g, hy thiêm 8g, uy linh tiên 6g, binh lang 6g. Các vị sao vàng hạ thổ. Sắc uống 2 lần trong ngày. Ngày 1 thang.

- Cốt khí củ 12g, dây đau xương 12g, rễ lá lốt 12g, rễ cỏ xước 12g, bồ bồ 8g, cam thảo nam 8g, mã đề 8g, quế chi 6g. Sắc uống ngày 1 thang; kết hợp xoa bóp bằng rượu ngâm quế chi, huyết giác.

Chữa thương tích, ứ máu, đau bụng: Cốt khí củ 20g, cây lá móng 16g. Sắc lấy 300ml nước, cô lại còn 150ml, thêm 20ml rượu, chia uống 2 lần trong ngày.

Chữa sưng vú: Cốt khí củ 12g, hạt muồng 12g, rễ lá lốt 10g, rễ bồ công anh 10g, bạch truật 8g. Sắc uống ngày 1 thang.

TS.Nguyễn  Đức Quang

Meo.vn (Theo SK&ĐS)

Viêm cầu thận có thể dùng thuốc Nam

Viêm cầu thận là một bệnh đặc trưng bởi tình trạng viêm của các tiểu cầu thận và các mạch máu nhỏ trong thận. Bệnh có thể xuất hiện độc lập hoặc kết hợp với hội chứng thận hư.

http://bee.net.vn/dataimages/201109/original/images775290_T12_thuoc_nguoi_cao_tuoi___thai_lai_tia_mau.jpg

Thài lài tía

Tùy vào các dạng mà có cách điều trị khác nhau. Dưới đây, bạn đọc có thể tham khảo bài thuốc Nam điều trị viêm cầu thận.

Bài thuốc: Thài lài tía hoặc xanh, bạch đồng ngữ, rễ cây mặt quỷ, cây chi tử sao đen, bông mã đề, củ mạch, lá cối xay, rễ cỏ chanh, hoạt thạch, mỗi vị 16g, cam thảo nam 10g, tất cả sắc ngày 1 thang, uống 3 lần.

Khi bị viêm cầu thận, cách điều trị chủ yếu là nghỉ ngơi và chế độ dinh dưỡng hợp lý. Người bị viêm cầu thận cấp nhất định phải ăn nhẹ, ăn nhạt, chế độ ăn không mì chính, ít protein... hạn chế ăn trứng, nên theo dõi lượng nước tiểu nếu thấy đái ít hay vô niệu thì bỏ hẳn rau quả để tránh tăng kali máu.

Meo.vn (Theo Bee)

Chữa viêm gan nhờ Đông y

Ở Việt Nam, viêm gan cấp, bán cấp chủ yếu là do virus, tuy có sự khác nhau về tác nhân gây bệnh, dịch tễ học, bệnh học và tiến triển, nhưng trên lâm sàng thường có các triệu chứng và hội chứng tương đối giống nhau.

Về tác nhân gây bệnh có thể do các loại virut A, B, C, D và F gây nên. Các bệnh viêm gan này đều được gọi chung là viêm gan virut.

Về đường lây viêm gan virut A, F lây chủ yếu theo đường tiêu hóa; virut B, C, D lây chủ yếu theo đường máu, do tiêm chích, đôi khi còn có thể lây theo đường nước bọt hay đường sinh dục hoặc lây truyền từ mẹ sang con qua rau thai. Tuy có sự khác nhau về đường lây và phương thức lây truyền, nhưng tất cả các bệnh viêm gan virut đều có đặc điểm chung là một bệnh truyền nhiễm, tức là có khả năng lây từ người bệnh sang người lành hoặc từ một người lan sang cả một cộng đồng người.

Về triệu chứng lâm sàng tuy có sự khác nhau do các tác nhân khác nhau gây nên, nhưng nhìn chung bệnh viêm gan virut điển hình đều có 4 giai đoạn:

Thời kỳ nung bệnh: Bệnh nhân không hề cảm thấy có triệu chứng gì khác thường.

Thời kỳ khởi phát (tiền vàng da) kéo dài từ 4 – 10 ngày, có các dấu hiệu chính như sốt nhẹ, mệt mỏi nhiều mặc dù không sốt cao, có dấu hiệu giả cúm và dấu hiệu rối loạn tiêu hóa. Lúc này xét nghiệm sẽ thấy men gan tăng cao hoặc rất cao, thường gấp trên 10 lần lúc bình thường, có khi tới trên 100 lần.

Thời kỳ toàn phát (vàng da) triệu chứng vàng da rõ ràng nhất, da vàng, mắt vàng, nước tiểu vàng sẫm, có thể kèm sốt cao hoặc sốt vừa. Ngoài ra bệnh nhân cảm thấy mệt mỏi tăng hơn trước, rối loạn tiêu hóa, chán ăn đặc biệt sợ mỡ. Xét nghiệm trong giai đoạn này không phải để chẩn đoán mà chủ yếu để tiên lượng bệnh, do đó cần thăm dò 4 hội chứng của gan: Hội chứng hủy hoại tế bào gan, hội chứng ứ mật, hội chứng viêm và hội chứng suy tế bào gan.

Thời kỳ lui bệnh được biểu hiện bằng đi tiểu nhiều, tới 2 – 3 lít mỗi ngày, nước tiểu màu nhạt dần và vàng da cũng đỡ dần, bệnh nhân ăn uống ngon miệng, xét nghiệm sinh hóa cho thấy chức năng gan phục hồi dần. Tuy nhiên, ở một số người, vẫn mệt mỏi kéo dài, ăn uống khó tiêu, cảm giác ấm ách vùng thượng vị hoặc đau tức, nằng nặng vùng hạ sườn phải.

Đối với viêm gan B, xuất hiện kháng thể HBs Ag. Nếu xét nghiệm thấy HBs Ag kéo dài quá 4 tháng, phải nghĩ đến viêm gan mạn tính sau viêm gan virut B.

Về ăn uống, trong thời kỳ bị bệnh không nên ăn mỡ, ăn nhiều đường, ăn nhiều hoa quả tươi. Sau bị bệnh, ăn trở lại bình thường dần dần, nhưng rượu bia thì phải kiêng tuyệt đối ít nhất 6 tháng sau khi khỏi bệnh.

Về điều trị, cho đến nay Tây y vẫn chưa có thuốc điều trị đặc hiệu viêm gan virut. Song cả Tây y và Đông y đều cho rằng, nghỉ ngơi là rất cần thiết đối với bệnh viêm gan virut: Cần nằm nghỉ tuyệt đối trong thời gian vàng da và nghỉ dưỡng sức ít nhất 15 ngày sau khi hết vàng da, sau đó lao động vừa sức tăng dần để trở lại lao động bình thường.

Đối với bệnh viêm gan virut nói riêng, viêm gan vàng da nói chung, Đông y có nhiều bài thuốc chữa rất có hiệu quả. Đây không phải là những bài thuốc đặc trị theo từng loại bệnh mà chính là tăng cường chức năng gan, lập lại cân bằng, giúp chức năng gan trở lại trạng thái bình thường.

Đông y không phân thành bệnh viêm gan mà gọi chung là hoàng đản (chứng vàng da). Theo y văn, hoàng đản nguyên nhân chủ yếu do thấp nhiệt uất kết trong tỳ vị, ảnh hưởng đến can, sinh ra mắt vàng, mặt vàng rồi đến toàn thân đều vàng, nước tiểu vàng sẫm. Nếu độc khí của thấp nhiệt lưu lại không tiêu được sẽ làm cho càng ngày càng ăn kém, gan càng ngày càng to. Về phân loại, Đông y phân ra hai chứng hoàng đản: Dương hoàng và âm hoàng.

Dương hoàng: biểu hiện mặt, mắt vàng tươi sáng như màu quả quýt, da vàng nhuận, bệnh nhân cảm giác lợm giọng, nôn ọe, vùng thượng vị đau tức, nước tiểu đỏ và sẻn, có sốt, thân thể mệt mỏi, tinh thần uể oải, ăn kém, rêu lưỡi vàng nhờn, hoặc trắng mỏng, chất lưỡi đỏ.

Phép chữa là thanh nhiệt, lợi thấp.

Bài thuốc: Nhân trần 30g, vọng cách 20g, chi tử 10g, vỏ đại (sao vàng) 10g, ý dĩ 30g, thần khúc 10g, actisô 20g, cuống rơm nếp 10g, nghệ vàng 20g, mã đề 12g, mạch nha 16g, cam thảo nam 8g. Tất cả cho vào ấm đất với 500ml nước, sắc còn 150ml, chắt ra, cho nước sắc tiếp, lấy thêm 100ml, trộn chung cả hai lần, chia đều uống trong ngày, uống trước các bữa ăn. Uống liền 7 – 10 ngày.

Âm hoàng: Có triệu chứng mặt, mắt và da vàng hãm tối, bụng đầy, rối loạn tiêu hóa, vùng thượng vị, trung vị, hạ vị đều đau tức, không sốt, thân thể mệt mỏi, rêu lưỡi trắng mỏng, hoặc hơi vàng trơn, chất lưỡi nhợt nhạt.

Phép chữa là ôn hóa hàn thấp.

Bài thuốc: Nhân trần 30g, vọng cách 20g, gừng khô 8g, quế thông 4g, ý dĩ 30g, thần khúc 10g, actisô 20g, cuống rơm nếp 10g (sao), nghệ vàng 20g, củ sả 8g, mạch nha 16g, cam thảo nam 8g (sao). Sắc uống như bài trên.

Về phòng bệnh, hiện nay đã có vaccin của một số viêm gan virut nên tốt nhất là tiêm phòng. Phòng bệnh không đặc hiệu cần vệ sinh sạch sẽ, tạo thành thói quen rửa tay trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh và hết sức thận trọng khi truyền máu, truyền dịch, châm cứu, tiêm chích hoặc làm các thủ thuật khác như nhổ răng, phẫu thuật…

Đề phòng từ viêm gan cấp chuyển sang mãn tính bằng cách nghỉ ngơi, phù hợp khi bị bệnh, uống các bài thuốc Đông y nêu trên, lao động vừa sức, ăn uống hợp lý và đặc biệt phải kiêng rượu, bia ít nhất là nửa năm sau khi bệnh đã khỏi.

Theo SK&ĐS

Bài thuốc chữa bệnh quai bị

Quai bị là một bệnh truyền nhiễm do virut gây ra, bệnh thường xảy ra vào mùa đông xuân khi tiết trời mưa, lạnh, độ ẩm cao. Bệnh hay gặp ở trẻ em từ 5-10 tuổi, bệnh lây nhanh ở các lớp học, nhà trẻ mẫu giáo. Có khi người lớn cũng mắc ở các vùng dân trí thấp, vệ sinh kém. Bệnh lây qua đường hô hấp khi tiếp xúc trực tiếp như nói chuyện, ho, hắt hơi, virut khuyếch tán trong không khí nên dễ thành dịch. Theo quan niệm của Đông y cho rằng, đây là dịch độc xâm nhập vào cơ thể qua mũi, miệng vào kinh thiếu dương, đi theo đởm kinh ra ngoài phát bệnh. Đởm và can có quan hệ biểu lý tạng phủ, nên có các triệu chứng của can và kinh can kèm theo viêm tinh hoàn, sốt cao co giật… Chính vì vậy, nên khi bị quai bị thường có biến chứng viêm tinh hoàn dẫn đến teo tinh hoàn và vô sinh sau này.

Triệu chứng của quai bị xuất hiện nhanh, rầm rộ. Sau một đêm ngủ, sáng ra đã thấy má sưng ở quai hàm, có thể một hoặc hai bên cùng một lúc, sưng ngày càng to, rất nóng và đau, sờ thấy rắn, người có sốt, đau đầu, mệt mỏi, không muốn ăn, nhai đau nên chỉ nuốt chửng. Môi khô, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, người háo nhiệt, khát nước nhiều. Bệnh kéo dài từ 7-15 ngày có khi hơn. Trường hợp nặng còn sốt cao, mê sảng, viêm tuyến mang tai, viêm tinh hoàn, đau đầu dữ dội, nôn thốc nôn tháo…

Phương pháp điều trị: Chống viêm, thanh nhiệt, giải độc, chỉ thống.

Bài 1: Sài đất 20g, bồ công anh 16g, kinh giới, kim ngân, thổ phục linh mỗi thứ 12g, chỉ xác 8g, cam thảo nam 8g, bạc hà 6g. Sắc uống ngày một thang chia 3 lần.

Bài 2: Bồ công anh 16g, hạ khô thảo, kim ngân, sài hồ, mỗi thứ 12g, ngưu bàng tử, liên kiều, hoàng cầm mỗi thứ 8g. Sắc uống ngày một thang chia 3 lần.

Bài 3: Thạch cao 16g, ngưu bàng, cát căn mỗi thứ 12g, thăng ma, hoàng cầm, liên kiều, cát cánh, thiên hoa phấn mỗi thứ 8g, cam thảo 4g. Sắc uống ngày một thang, chia 3 lần.

Nếu có viêm tinh hoàn dùng thêm hạt vải 12g, khổ luyện tử 8g.

Tại chỗ vùng mang tai dùng hạt gấc mài với dấm bôi vào chỗ viêm ngày 3-4 lần.

Để bệnh nhân nghỉ ngơi tuyệt đối, tránh đi lại nhiều đề phòng biến chứng. Ăn uống chất mềm, đủ dinh dưỡng để bệnh mau chóng bình phục.

Khi có đau bụng dưới ở trẻ gái hoặc đau tinh hoàn ở trẻ trai cần dùng kháng sinh theo chỉ định của thầy thuốc.

SK&ĐS

Quả khế giải độc

Theo Đông y, quả khế gọi là ngũ liễm tử có  vị chua chát, tính bình, không độc, tác dụng khử  phong, thanh nhiệt, giải uế, giúp làm lành vết thương.

Khế thường được dùng chữa cảm sốt, khát nước, ngộ độc rượu, đi tiểu ít, nhiệt độc, vết thương chảy máu.

Ngày dùng 40 – 80g tươi, ăn sống như rau hoặc giã  nát vắt lấy nước uống. Hoa khế có vị ngọt, tính bình, tác dụng giải độc tiêu viêm. Thường dùng chữa sốt rét, ho khan, ho đờm, kiết lỵ, trẻ em bị kinh giản.

Người ta thường dùng hoa khế tẩm nước gừng hoặc tẩm rượu gừng rồi sao thơm, sắc uống để chữa ho đờm. Ngày dùng 4 – 12g. Vỏ thân và lá khế có vị chua, chát, tính bình, tác dụng lợi tiểu, tiêu viêm.

Chữa nước ăn chân, lở loét, đau nhức: Lấy 1 – 2 quả khế chín, vùi trong tro nóng để vừa ấm rồi áp lên chỗ đau.

Chữa bí tiểu, đau tức bàng quang: Khế chua 7 quả, mỗi quả chỉ lấy 1/3 phía gần cuống. Nấu với 600ml nước, sắc còn 300ml, uống lúc còn ấm nóng. Ở ngoài, lấy 1 quả khế và 1 củ tỏi giã nát nhuyễn, đắp vào rốn.

Chữa cảm cúm, mình mẩy đau nhức: Khế chua 3 quả, nướng chín, vắt lấy nước cốt, hòa với 50ml rượu trắng, uống 1 lần hoặc chia làm 2 lần uống vào lúc không no không đói quá.

Chữa cảm sốt, nhức đầu, đi tiểu ít, cảm nắng: Lá khế tươi 100g sao thơm, nấu với 750ml nước, sắc còn 300ml, chia 2 lần uống trước bữa ăn. Hoặc dùng lá khế tươi 100g, lá chanh tươi 20 – 40g, hai thứ rửa thật sạch, giã nát,  vắt lấy nước chia 2 lần uống trước bữa ăn.

Chữa viêm họng cấp: Lá khế tươi 80 – 100g, thêm ít muối, giã nát, vắt lấy nước cốt, chia 2 – 3 lần để ngậm và nuốt dần.

Chữa ho khan, ho có đờm: Hoa khế (sao với nước gừng) 8 – 12g, cam thảo nam 12g, tía tô 8 – 10g, kinh giới 8 – 10g. Nấu với 750ml nước, sắc còn 300ml, chia 2 lần uống trước bữa ăn.

theo bee.net.vn

Thuốc Nam chữa ngộ độc thực phẩm

Hằng năm tại nước ta, tình trạng ngộ độc thực phẩm vẫn thường xảy ra. Có nhiều nguyên nhân gây ngộ độc, có những vụ ngộ độc rất thương tâm, cả nhà cùng bị do ăn phải nấm độc, cá nóc... Để giảm tử vong thì mọi người trong chúng ta cần phải có kiến thức về sơ cấp cứu giải độc cho nạn nhân càng sớm càng tốt.

Chữa các loại trúng độc

Cách 1: Đậu xanh nghiền sống, hòa đều trong nước, uống thật nhiều cho nôn ra để giải độc chất.

Cách 2: Lấy một nắm to lá rau muống, rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước cốt cho uống.

Chữa ngộ độc cua: Lấy một nắm to lá tía tô, sắc đặc uống nóng là khỏi.

Chữa ngộ độc thạch tín: Thạch tín là một chất cực độc, nếu chẳng may bị ngộ độc bởi chất này nhưng chưa kịp nạn nhân đưa tới bệnh viện, có thể lấy một vốc đậu ván trắng giã nhỏ, hòa với nước uống ngay thì có thể cứu được, sau đó phải khẩn trương đưa bệnh nhân tới bệnh viện để tiếp tục cấp cứu.

Chữa ngộ độc thịt chim: Vô tình ăn phải thịt chim có độc, da sẽ bị nổi mẩn đỏ ngứa ngáy, hoặc xây xẩm mặt mày, nôn ói... lấy một nắm đậu ván trắng, nghiền sống, hòa với nước lạnh cho uống thì khỏi.

Chữa ngộ độc thịt gia súc: Nếu bị nhiễm độc thịt gia súc, lấy một nắm đậu ván trắng, nướng cháy, nghiền mịn như bột, mỗi lần uống dùng 3 đồng cân hòa nước uống, rất có hiệu quả.

Chữa trúng độc mật cá nóc: Dùng rượu Cô-nhắc 1 ly (30ml) uống vào để giải độc. Hoặc hoa hòe sao 20g, sắc 2 chén nước còn 8ml, uống để giải độc.

Chữa trúng độc mật cóc, trứng cóc: Dùng một nắm lá khổ qua tươi (20g) giã nhuyễn vắt lấy nước uống giải độc, nhưng phải uống ngay sau khi ăn 3-5 phút, nếu lâu quá sẽ không có hiệu quả.

Chữa ngộ độc các loại cá có độc: Dùng các vị thuốc nam có tác dụng giải độc như: Tử tô 40g, nấu sôi với 2 chén nước còn 1 chén, uống sẽ có tác dụng giải độc.

- Đông qua (cây bí) còn tươi 400g, giã vắt lấy nước uống nhiều lần trong ngày. Vảy cá các loại 50g đốt thành tro, dùng một muỗng canh hòa với nước uống cũng có tác dụng giải độc.

- Đậu đen 100g nấu với 1 lít nước cho nhừ, uống nhiều lần trong ngày cũng có tác dụng giải độc.

Chữa ngộ độc sắn: Khi bị ngộ độc sắn, mới đầu cảm thấy chóng mặt, nhức đầu, choáng váng, rạo rực khó chịu, tiếp theo là nôn mửa, có người còn đau bụng. Dần dần sắc mặt tái đi, khó thở. Thở nhanh và nóng, lấy một chén đậu xanh giã nát, đun sôi để nguội, lọc lấy nước, chia 2 phần uống cách nhau khoảng 1-2 giờ sẽ giải được chất độc.

Chữa ngộ độc nấm: Không may bị ngộ độc nấm hãy dùng rau má 4 lạng, đường phèn 2 lạng, hai thứ cho vào ấm sắc lấy nước uống. Hoặc có thể dùng rau má 4 lạng, củ cải 1 cân, hai thứ giã nát, ép lấy nước uống.

Chữa khi ăn nhầm thức ăn có độc: Rau ngổ 1 nắm độ 30g, bí đao 30g, 1 muỗng cà phê muối, giã nhỏ vắt lấy nước uống có tác dụng giải độc.

- Đọt khổ qua 1 nắm độ 30g, giã nát vắt lấy nước uống giải độc.

- Đậu xanh 1 muỗng canh, đậu đen 1 muỗng canh, cỏ mần trầu 30g, bù ngót 30g, bí đao 30g, tất cả giã nát vắt lấy nước uống. Lòng trắng trứng gà 1 cái, 1 muỗng cà phê đường cát, hòa chung các thứ trên cho đều, uống nhiều lần trong ngày.

Bài thuốc uống giải độc: Cỏ mần trầu 20g, cam thảo nam 10g, lá bù ngót 10g, muồng trâu 10g, cỏ mực 10g, ké đầu ngựa 10g, đậu nành khô 10g, tất cả sắc lấy nước uống nhiều lần trong ngày, trẻ em tùy theo tuổi mà uống giảm xuống 1/2, 1/4, 1/8 liều người lớn.

Theo SK&DS

Bài thuốc chữa cảm cúm

Cúm là bệnh do virus gây ra, lây lan theo đường hô hấp. Dưới đây là một số bài thuốc, cây lá chữa cảm cúm thông thường.

1. Từ bạc hà

* Chữa cảm cúm: Bạc hà khô 20g, tỏi 10g, hương nhu khô 20g, hạt mùi khô 5g. Cho 3 bát nước, đun sôi kỹ còn 1 bát là được. Lấy một nửa bát nước thuốc cho bệnh nhân uống. Phần còn lại bịt kín nồi thuốc chỉ để 1 lỗ thủng nhỏ cho hơi thuốc bay ra, bệnh nhân ngồi ngửi hơi thuốc đó, khi hết hơi nóng thì thôi, ngày làm 1 lần, làm 2 ngày liền.

http://www.thanhnien.com.vn/News/Pictures200901/Tieukhuong/2009/07/27/2707200911.jpg

* Nếu cảm cúm có sốt nóng, rét, đau đầu, sổ mũi, đau nhức chân tay, cần dùng bài thuốc sau: Bạc hà khô 5g, cúc hoa vàng khô 10g, kinh giới khô 5g, kim ngân khô 15g. Sắc thuốc xong chia 2 lần uống trong ngày, uống trước khi ăn, cần uống 3 ngày liền.

Chú ý, không nên dùng bạc hà cho trẻ nhỏ dưới 1 tuổi và người mắc bệnh cao huyết áp.

2. Từ cúc tần

Cúc tần có vị đắng cay, mùi thơm, tính ấm, có tác dụng chữa cảm lạnh, chữa cảm sốt nóng không có mồ hôi...

* Chữa cảm cúm nhức đầu không có mồ hôi: Lá cúc tần 20g, lá sả 10g, lá chanh 8g, sắc thuốc xong cho bệnh nhân uống lúc còn nóng, bã thuốc còn lại cho thêm 2 bát nước đun sôi để cho bệnh nhân xông, sau đắp chăn kín cho ra mồ hôi.

3. Từ kinh giới

Kinh giới có vị cay, tính hơi nóng, có tác dụng làm ra mồ hôi, lợi tiểu, chữa nóng sốt, cảm gió.

* Chữa cảm cúm, đau nhức các đầu xương: Kinh giới tươi (cành non, lá) 50g, gừng sống 10g. Hai thứ rửa sạch, giã nát vắt lấy nước cốt cho bệnh nhân uống, ngày uống 2 lần, bã thuốc xoa dọc xương sống từ trên xuống.

4. Từ tía tô

Tía tô có vị cay, tính ấm, có tác dụng làm ra mồ hôi, tiêu đờm, chữa cảm cúm không có mồ hôi và ho tức ngực.

* Chữa bệnh cảm cúm không có mồ hôi: Lá tía tô (tươi) 15g, hành tươi (củ, rễ, dọc) 3 củ. Cả hai rửa sạch, thái nhỏ, cho vào bát cháo nóng để bệnh nhân ăn, ăn xong thì đắp chăn kín cho ra mồ hôi.

5. Từ tỏi

Tỏi có tác dụng kháng khuẩn, giảm đau, chống viêm... Dùng tỏi giã vắt lấy nước cốt 10 ml uống, ngoài dùng tỏi bọc bông nút mũi để chống lây.

6. Từ hành

Hành có vị cay, tính bình, có tác dụng làm tan lạnh, thông khí, giải cảm, sát trùng...

* Thuốc chữa cảm cúm, sốt nhẹ, nhức đầu: Hành 15g, (cả củ, rễ, lá) rửa sạch giã nhỏ. Tía tô 20g rửa sạch thái thật nhỏ.

Cả hai cho vào cháo loãng nóng quấy đều cho bệnh nhân ăn. Ăn xong đắp chăn kín cho ra mồ hôi.

* Thuốc chữa cảm sốt nhức đầu: Hành củ 30g, gừng tươi 20g, chè búp (khô) 8g, tía tô 6g. Sắc thuốc xong, cho bệnh nhân uống làm 2 lần trong ngày. Uống lúc thuốc còn nóng.

7. Từ cỏ mần chầu

Cỏ mần chầu, có vị ngọt, tính mát, tác dụng thanh nhiệt, chữa cảm nắng, sốt nóng cảm cúm.

* Chữa cảm cúm: Cỏ mần chầu 10g, cam thảo nam 8g, kim ngân 6g. Sắc uống ngày 1 thang.

8. Từ cam thảo đất

Cam thảo đất có vị ngọt, hơi đắng, tính mát, dùng để thanh nhiệt, chữa cảm cúm, ho, viêm họng.

* Chữa cảm cúm sợ gió, có mồ hôi, nặng đầu, ho: Bạc hà 8g, kinh giới 8g, lá tre 16g, kim ngân 16g, cam thảo đất 12g.

Sắc thuốc xong, cho bệnh nhân uống làm hai lần trong ngày, uống khi thuốc đã nguội.

Theo Quốc Trung (Thanhnien)