Bán hạ nam còn gọi là củ chóc [Tiphonium trilobatum (L.) Schott], họ ráy (Araceae), là cây thuốc mọc hoang ở hầu hết các địa phương trong nước ta. Vào mùa đông, khi lá đã lụi, đào lấy thân rễ, rửa sạch, cắt bỏ rễ con, rồi bổ đôi hoặc bổ ba tùy theo kích thước của củ. Phơi khô hoặc sấy khô. Trước khi sử dụng cần tiến hành chế biến thật cẩn thận, để loại bỏ các chất gây tê, ngứa ở củ.
Theo y học cổ truyền, bán hạ có tác dụng giáng nghịch, chỉ ho, trừ đờm, chống nôn. Dùng trị các chứng bệnh ho do đàm thấp, biểu hiện ho có đờm nhiều, hoặc ho do viêm phế quản mạn tính. Còn dùng khi vị khí thượng nghịch gây nôn. Có thể dùng ngoài để giải độc. Liều dùng chung 4-12g/ngày dưới dạng thuốc sắc, hoặc thuốc tán, thuốc hoàn. Cần lưu ý, những người có chứng táo nhiệt không nên dùng, người có thai dùng thận trọng.
Một số bài thuốc dùng bán hạ
Trong y học cổ truyền, một phương thuốc hay được dùng có vị bán hạ, đó là phương “Nhị trần thang”: Bán hạ (chế) 12g; trần bì, bạch phục linh mỗi vị 10g; cam thảo 8g, dưới dạng thuốc sắc để trị các chứng ho, nhiều đờm (hàn), ho lâu ngày hoặc khi vị khí xông lên vùng thượng tiêu, gây nôn lợm.
Trị chứng ho, nhiều đờm, thượng vị trướng tức, nôn mửa: Bán hạ (chế), trần bì, bạch phục linh mỗi vị 250g; cam thảo 75g. Đem 4 vị thuốc trên tán mịn, trộn với dịch sinh khương làm hoàn, mỗi ngày dùng 2 lần, mỗi lần 9 -15g
Trị chứng ho đờm hoặc sốt kèm theo ho, miệng khát, khó thở: Bán hạ (chế) 6g, ma hoàng, tô tử, đình lịch tử mỗi vị 8g; xạ can, hạnh nhân mỗi vị 10g; sinh khương 4g; thạch cao 20g; đại táo 12g. Sắc uống ngày một thang, tới khi hết các triệu chứng.
Trị chứng ho, khó thở, hen suyễn lâu ngày: Bán hạ (chế), tô tử, hạnh nhân, mỗi vị 8g; trần bì, bạch linh, cam thảo mỗi vị 10g. Dùng dưới dạng thuốc sắc ngày một thang, hoặc bán hạ 12g, ma hoàng (bỏ rễ) chích mật ong 8g, bồ kết (bỏ hạt) sao vàng. Cả 3 vị đem tán thành bột mịn, mỗi lần uống 2-3g với nước ấm, ngày 2-3 lần. Uống đến khi các triệu chứng thuyên giảm.
Trị viêm phế quản mạn tính, khí suyễn, đờm nhiều: Bán hạ (chế) 15g; ma hoàng, bạch thược mỗi vị 10g; quế chi, tế tân, ngũ vị tử, can khương, sinh cam thảo mỗi vị 5g, dùng dưới dạng thuốc sắc, ngày một thang. Uống nhiều ngày tới khi các triệu chứng thuyên giảm, hoặc bán hạ (chế), tô tử mỗi vị 15g; trần bì, cam thảo mỗi vị 10g, dùng dưới dạng thuốc sắc, ngày một thang. Uống nhiều ngày tới khi các triệu chứng thuyên giảm.
Trị chứng hen suyễn lâu ngày, da xanh xao, thiếu máu: Bán hạ (chế) 8g; trần bì, phục linh, cam thảo mỗi vị 10g; đương quy, thục địa mỗi vị 12g, dưới dạng thuốc sắc, ngày một thang.
Trị chứng đờm hàn, ho, tâm hồi hộp, khó ngủ: Bán hạ (chế) 8g; chỉ thực, trần bì, bạch linh, cam thảo mỗi vị 10g; trúc nhự 8g, dưới dạng thuốc sắc, ngày một thang.
Trị bụng đầy trướng, buồn nôn: Bán hạ, trần bì, bạch linh, cam thảo, cùng với sinh khương mỗi vị 12g, sắc uống; hoặc bán hạ (chế) 40g, chỉ xác 28g, phèn phi 32g, sắc uống.
Trị ong đốt, rắn cắn:Đem củ bán hạ tươi gọt vỏ, giã nát, chấm vào chỗ ong đốt. Nếu bị rắn cắn, trước hết cần làm các thao tác cần thiết như ga-rô, nặn, bỏ hết nọc độc, bỏ răng của rắn, lấy củ bán hạ tươi, giã nhỏ rồi băng vào chỗ bị rắn cắn. Tuy nhiên đối với rắn cắn, cần theo dõi và có biện pháp kịp thời chuyển đến bệnh viện cấp cứu khi cần thiết.
GS.TS. Phạm Xuân Sinh