Thanh uyển thuộc họ Cúc (Adteraceae), tên khác là tử uyển, dã ngưu bàng, là một cây thảo, sống lâu năm, cao 1 – 1,2m. Thân mọc thẳng, phân cành nhiều có lông thưa, cuống lá dài có rìa bên; lá phía trên mọc so le, nhỏ và hẹp hơn gần như không cuống. Cây mọc tự nhiên ở Cao Bằng, Lạng Sơn. Bộ phận dùng làm thuốc của thanh uyển là rễ, thu hái quanh năm.
Dược liệu thanh uyển có vị đắng, cay, tính ôn, không độc có tác dụng nhuận phế, hóa đờm, chỉ khái, hạ khí, chữa ho có đờm, hen suyễn, viêm họng, viêm phế quản cấp và mạn tính. Liều dùng hàng ngày 6 – 12g dưới dạng thuốc sắc hoặc hoàn tán. Thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác theo những phương thức sau:
Chữa ho, hen có đờm khò khè: thanh uyển 12g, bách bộ 12g, cát cánh 8g, mạch môn 8g, kinh giới 8g, trần bì 6g, cam thảo dây 6g. Tất cả thái nhỏ, phơi khô, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm 2 lần trong ngày.
Cây và rễ thanh uyển
Chữa ho lâu ngày, viêm phế quản mạn tính: thanh uyển 10g, khoản đông hoa 10g, thổ bốn mẫu 10g, hạnh nhân 10g, cát cánh 10g, cam thảo 3g. Sắc uống ngày 1 thang.
Chữa ho gà ở giai đoạn hồi phục: thanh uyển 8g, bách bộ 8g, rễ quả lâu 16g, sa sâm 12g, mạch môn 12g. Sắc uống trong ngày.
Chữa lao phổi: thanh uyển 12g, bạch truật 12g, đảng sâm 12g, cỏ nhọ nồi 12g, thổ phục linh 8g, bách hợp 8g, cam thảo 6g, ngũ vị tử 6g, thổ bối mẫu 6g, sắc uống ngày 1 thang.
Chữa hen phế quản: thanh uyển 12g, tế tân 12g, khoản đông hoa 12g, đại táo 12g, ma hoàng 10g, ngũ vị tử 10g, bán hạ chế 8g, xạ can 6g, gừng sống 4g. Sắc uống trong ngày.
Chữa suy nhược cơ thể do phế hư: thanh uyển 12g, ngũ vị tử, tang bạch bì, thục địa, đảng sâm, hoàng kỳ mỗi vị 10g. Sắc uống trong ngày.
DS. Huyền Hoa
Theo Suckhoedoisong.vn